 |
Bằng và Huân chương Chiến công hạng ba do Chủ tịch nước truy tặng cho liệt sĩ Phùng Chí Kiên năm 1994. |
Trong hệ thống trưng bày của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, có phần trưng bày thể hiện quá trình ra đời và phát triển của Đội du kích Bắc Sơn - Đội Cứu quốc quân I.
Tháng 6 năm 1940, phát xít Đức tấn công nước Pháp buộc Chính phủ Pê-tanh ở Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lợi dụng tình hình đó, phát xít Nhật tiến hành xâm chiếm Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 9 năm 1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn. Quân Pháp tuy có chống đỡ nhưng bị tổn thất nặng buộc phải bỏ chạy khỏi Lạng Sơn về Thái Nguyên qua Bắc Sơn. Nắm bắt thời cơ, đêm 27 tháng 9 năm 1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, gần 600 tự vệ và quần chúng cách mạng Bắc Sơn tiến hành khởi nghĩa, đánh chiếm Mỏ Nhài, chiếm châu lỵ Bắc Sơn, thành lập chính quyền cách mạng. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng quyết định cử đồng chí Trần Đăng Ninh, Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ lên tăng cường cho Đảng bộ Bắc Sơn. Phong trào cách mạng ở Bắc Sơn phát triển mạnh mẽ, Đội du kích Bắc Sơn ra đời, chiến khu cách mạng được thành lập. Sau khi Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức thì ở Đông Dương toàn quyền Đờ-cu cũng đầu hàng phát xít Nhật và câu kết với chúng bóc lột nhân dân và đàn áp phong trào cách mạng của nước ta. Trước tình hình đó, nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật cứu nước, giành độc lập dân tộc đối với Việt Nam trở nên cấp thiết.
Năm 1938, từ Liên Xô, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Trung Quốc hoạt động cách mạng. Năm 1940, Người lấy bí danh là Hồ Chí Minh. Tại Côn Minh, Vân Nam - Trung Quốc, Lãnh tụ Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp gồm các đồng chí lãnh đạo cách mạng Việt Nam tại hải ngoại và nhận định: “Thời cơ cho cách mạng Việt Nam đã đến. Mọi người không nên ở lại Quế Lâm nữa, phải tìm cách về nước ngay để hoạt động. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng...”. Một trong số ủy viên Trung ương Đảng ở hải ngoại, thường xuyên trao đổi và xin chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh là đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng. Những năm từ 1939 đến 1941, đồng chí thường xuyên đưa đón Người đến các nơi như Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn, Chí Thôn của tỉnh Vân Nam để nắm tình hình. Năm 1941, đồng chí cùng với Người trở về nước hoạt động. Sự kiện này mở ra bước ngoặt đối với cách mạng Việt Nam.
  |
Di vật của gia đình liệt sĩ Phùng Chí Kiên đã sử dụng sau đó dùng làm đồ thờ trên bàn thờ của liệt sĩ. Ảnh: THU HƯƠNG |
Phùng Chí Kiên tên thật là Nguyễn Vĩ. Trong quá trình hoạt động, đồng chí có những tên khác là Nguyễn Vợi, Nguyễn Hào, Mạnh Văn Liễu, Phùng, Lý Đông, Phùng Nguôn Bình, Đông Hải, Can, Hừng Đông, Như Bạch, Phùng Quốc Nghiên… Đồng chí sinh năm 1901, quê ở làng Mỹ Quan Thượng, xã Vạn Phần, Phủ Diễn Châu, Nghệ An (nay là làng Mỹ Quan, xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). Đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, được Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội chọn lựa đưa sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức năm 1926 cùng với các đồng chí Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Thiết Hùng, Trương Văn Lĩnh, Phạm Hồng Thái…. Sau lớp học này, đồng chí Phùng Chí Kiên vào học tại Trường Võ bị Hoàng Phố (Quảng Đông) của Chính phủ Tôn Trung Sơn và gia nhập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Tại đây, đồng chí Phùng Chí Kiên có dịp bộc lộ năng khiếu quân sự bẩm sinh. Tốt nghiệp khóa học với điểm ưu, đồng chí tham gia giảng dạy tại một trường quân sự chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc rồi cùng với một số cán bộ của Việt Nam tham gia khởi nghĩa Quảng Châu (12-12-1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, được cử làm Liên đội trưởng Hồng quân công nông Trung Quốc. Năm 1930, đồng chí gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 2 năm 1931, được sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc, đồng chí được sang học Trường đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản tại Mát-xcơ-va. Trên đường đi, đến Mãn Châu, đồng chí bị bọn phát xít Nhật bắt. Ra tù, Phùng Chí Kiên đổi tên là Can (Hừng Đông) rồi tiếp tục sang Liên Xô học tập lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin và kinh nghiệm đấu tranh bảo vệ xây dựng đất nước của nhân dân Liên Xô, từ năm 1933 đến năm 1934.
Cuối năm 1934, Phùng Chí Kiên trở về Hương Cảng, hoạt động trong Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí cùng các đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập chuẩn bị triệu tập đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất tại Ma Cao - Trung Quốc, tháng 3 năm 1935. Trong số 13 ủy viên Trung ương do đại hội bầu ra, đồng chí có tên cùng với các đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Hoàng Đình Giong, Đình Thanh, Võ Nguyên Hiến, Võ Văn Ngân, Phạm Văn Xô... Tại đại hội, đồng chí được bầu vào Thường vụ Ban chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác Đảng ở nước ngoài.
Năm 1936, đồng chí trở về Sài Gòn cùng đồng chí Hà Huy Tập chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Năm 1937, đồng chí trở lại Hương Cảng với tấm thẻ căn cước mang tên Phùng Nguôn Vĩnh, sau bị cảnh sát Anh bắt và trục xuất. Năm 1938, đồng chí trở về Côn Minh - Trung Quốc, tham gia củng cố ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và xuất bản tờ báo “Đấu tranh”.
Cuối năm 1937, đồng chí Phùng Chí Kiên đến Hồng Công, phụ trách liên lạc giữa Đảng và quốc tế. Cuộc chiến tranh Trung - Nhật đã làm cho đường giao thông Hoa Nam bị gián đoạn, do vậy đồng chí phải rời Hồng Công về Quảng Đông cùng với Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức đội du kích chống Nhật ở đó.
Năm 1938, Nguyễn Ái Quốc từ Mát-xcơ-va về Trung Quốc. Tháng 2 năm 1939, Người tham gia lớp huấn luyện du kích tại Nam Nhạc, Hồ Nam. Cuối năm 1939, Người mới bắt liên lạc với Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng ta tại Côn Minh - Vân Nam. Cùng thời gian này đồng chí Phùng Chí Kiên trở về Vân Nam hoạt động. Tại đây, đồng chí Phùng Chí Kiên thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, báo cáo Lãnh tụ Hồ Chí Minh về tình hình của Đảng và xin chỉ thị của Người về hoạt động của Ban lãnh đạo hải ngoại. Đồng chí còn thường xuyên đưa đón Người đến các nơi như Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn, Chí Thôn của tỉnh Vân Nam nắm tình hình. Năm 1941, đồng chí cùng Người và một số cán bộ của Đảng từ Trung Quốc về nước. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam hiện còn lưu giữ khẩu súng ngắn Mauser, Lãnh tụ Hồ Chí Minh trao cho đồng chí Đào Mạnh Vi (tức Thế An) dùng tổ chức con đường giao thông, bảo vệ đoàn cán bộ này từ Trung Quốc về nước, năm 1941.
Khi Lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Thụ, Đào Mạnh Vi… về đến Nậm Quang, một vùng nằm sát biên giới Việt Trung, tại đây, đồng chí Phùng Chí Kiên đã tập hợp 40 đồng chí thanh niên yêu nước để Lãnh tụ Hồ Chí Minh huấn luyện, đào tạo về cách tổ chức đoàn thể quần chúng, cách tuyên truyền và huấn luyện, phương pháp đấu tranh cách mạng. Số cán bộ này sau trở thành những cán bộ cốt cán đưa về Cao Bằng xây dựng thí điểm ở các đoàn thể Việt Minh, lập khu căn cứ cách mạng. Dựa theo tài liệu huấn luyện của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng chí Phùng Chí Kiên đã cùng với đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp biên soạn thành bài giảng huấn luyện cho cán bộ trong nước. Những tài liệu này sau được in thành sách: “Con đường giải phóng”.
Ngày 28 tháng 1 năm 1941, tức ngày 3 Tết Tân Tỵ, Đoàn cán bộ của Đảng từ Nậm Quang vượt qua cột mốc biên giới 108 về Cốc Pó, Hà Quảng, Cao Bằng. Tại đây, đồng chí Phùng Chí Kiên đã tham gia tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ Việt minh cho các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn và một số tỉnh miền xuôi chuẩn bị lực lượng cho các tổ chức cách mạng. Năm 1959, ông Thi Văn Lùng ở Nà Sác, Hà Quảng, Cao Bằng, trao cho Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) khẩu súng pháo hiệu, số nòng 26.7. Trong hồ sơ hiện vật của Bảo tàng có ghi: Được đồng chí Đào Mạnh Vi (Thế An) vận động, ông Thi Văn Lùng đã mua khẩu súng pháo hiệu này ủng hộ cách mạng. Súng được sử dụng báo hiệu khi có địch để bảo vệ Lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí Phạm Văn Đồng, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Thụ… tại Cao Bằng, năm 1941.
- Chiếc đánh lửa bằng sừng trâu của gia đình ông Mạn ở thôn Nà Mạ, xã Xuân Hòa, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng đã dùng đánh lấy lửa, dẫn đường, phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Trường Chinh, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Thụ, Lê Quảng Ba… trong thời gian các vị hoạt động tại Cao Bằng, năm 1941. Hiện vật này được ông Mạn trao cho Bảo tàng năm 1959.
(còn nữa)
Thiếu tướng Lê Mã Lương