Từ sau chiến dịch Biên giới (10-1950), quân Pháp ở Đông Dương lâm vào thế bị động.
 |
Bác Hồ tại mặt trận Đông Khê năm 1950. Ảnh: TL |
Tháng 5-1953, Chính phủ Pháp phải điều viên tướng bốn sao Hăng-ri Na-va sang thay Ra-un Sa-lăng. Báo chí phương Tây ca ngợi Na-va như một danh tướng, có thể “uốn nắn lại tình hình Đông Dương”. Để giành quyền chủ động, Na-va ra sức xây dựng các binh đoàn cơ động mới (GM). Nhờ viện trợ Mỹ, Na-va có thêm 11 GM, cùng 7 GM cũ, đưa tổng số lên 18 GM (11 GM Âu Phi, 7 GM ngụy). Đáng chú ý là Na-va để 44 tiểu đoàn chủ lực cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ. Với lực lượng cơ động này, Na-va có thể mở cuộc hành binh (ape’ration) vào hậu phương ta.
Bước vào Đông-Xuân 1953-1954, ta và địch giữ thế với nhau khá căng thẳng. Mở chiến dịch ở đâu, ta phải cân nhắc thận trọng, tức phải bảo vệ được Việt Bắc, đầu não kháng chiến bấy giờ. Còn đánh vào trung du, đồng bằng, các nơi đó địch phát huy được phi pháo, tàu chiến cơ động trên sông nước. Chiến dịch Hà Nam Ninh cho thấy rõ điều đó. Với chiến trường rừng núi vẫn là địa bàn ta phát huy được sở trường tập kích, phục kích, giữ bí mật, tiếp cận mục tiêu dễ dàng hơn, phi pháo của địch bị hạn chế tác dụng.
Na-va nêu ra yêu cầu “luôn luôn chủ động”, “luôn luôn tấn công” và cho thực hành một số hoạt động như:
Vào ngày 27-7-1953, Na-va cho hai tiểu đoàn nhảy dù xuống Kỳ Lừa (Lạng Sơn), một tiểu đoàn xuống thị trấn Lộc Bình, phá phách kho tàng, rồi sau 3 ngày rút về Đình Lập-Tiên Yên. Đây là cuộc hành quân “Con nhạn”, sâu vào hậu phương ta. Một hành động táo bạo của Na-va. Rồi y cho đổ Phỉ ở Tây Bắc, phá cầu Cốc Lếu (Lào Cai). Ở đồng bằng Bắc Bộ Na-va cho mở nhiều cuộc càn ác liệt, lớn nhất là cuộc càn Brochet (con cá măng), vào tháng 9-1953 ở Nam-Bắc sông Luộc, với lực lượng ba GM (GM2, GM5, GM7). Đặc biệt là ngày 15-10-1953, Na-va cho mở cuộc hành quân Hải Âu (Mouette) do Cô-nhi Tư lệnh Bắc Bộ trực tiếp chỉ huy, nhằm thu hút chủ lực ta tới đó, rồi rút nhanh ngay về căn cứ xuất phát (Ninh Bình), hòng phá kế hoạch Đông-Xuân của ta. Nhưng chúng đã bị đại đoàn 320, cùng lực lượng địa phương chặn đánh, tiêu diệt 1.711 tên, bắt 311 tên, phá 19 xe, bắn rơi 2 máy bay, làm Na-va phải cho triệt thoái cuộc hành quân này vào ngày 6-11-1953. Đại bộ phận chủ lực của ta vẫn chưa sử dụng, vẫn học tập theo hướng đánh tập trung, đánh lớn vào tập đoàn cứ điểm và sẵn sàng cơ động cao, nhận nhiệm vụ của kế hoạch Đông-Xuân.
Ngày 12-8-1953, Na-va bất thần cho rút quân ở Nà Sản (nam thị xã Sơn La 20km) bằng đường không, tăng thêm 6 tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo binh cho lực lượng cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ. Sự kiện này có liên quan tới ý định của ta định đánh vào đó trong Đông-Xuân 1953-1954.
Nhìn chung các hoạt động của Na-va nhằm gây mất ổn định hậu phương ta, hy vọng giành quyền chủ động, phục vụ cho kế hoạch 18 tháng của y, giai đoạn đầu phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, rồi bình định miền Nam.
Về ta vẫn giữ thế trận “Hổ vồ mồi”, theo phương châm của Bộ Chính trị “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Bộ Tổng tư lệnh nắm sát tình hình, xúc tiến chuẩn bị phương án tác chiến Đông-Xuân để trình Bộ Chính trị.
Vào đầu tháng 10-1953, Bộ Chính trị họp, có Bác Hồ đến dự, để nghe Quân ủy báo cáo kế hoạch tác chiến Đông-Xuân. Sau khi nghe tình hình, điểm nổi lên: “Na-va tập trung quân cơ động”… Bác nói: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh. Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực, thì sức mạnh đó không còn”. (Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, tr.26). Lúc đó bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón tay trỏ về một hướng. Có thể nhạy cảm về ý chỉ đạo của Bác là: Ta phải mở nhiều đòn tấn công ở các nơi trọng yếu, buộc Na-va phải điều chủ lực cơ động tới ứng cứu. Làm thế khối chủ lực cơ động của Na-va bị phân tán. Thế cục sẽ thay đổi hẳn, làm Na-va lâm vào thế bị động, không còn dự bị. Trong buổi họp này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương đề nghị: Ta mở cuộc tiến công lên Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, quét sạch quân Pháp ở Tây Bắc, đồng thời uy hiếp Thượng Lào, giúp cách mạng Lào phát triển. Hướng thứ hai là Trung Lào. Hướng thứ ba là Tây Nguyên. Hướng thứ tư là đẩy mạnh hoạt động của ta ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hướng thứ 5 là đánh sang Thượng Lào của đại Đoàn 308. Đó là năm đòn tiến công buộc Na-va không thể không đưa dự bị cơ động tới cứu vãn. Về ta thực hiện kế hoạch bảo vệ cơ quan đầu não ở Việt Bắc, giấu một bộ phận chủ lực ở những vị trí cơ động kịp thời tiêu diệt địch khi chúng đánh ra. Mặt khác ra sức xúc tiến xây dựng nhiều lực lượng dân quân, bộ đội địa phương sẵn sàng phối hợp với chủ lực.
Vào đầu tháng 10-1953, Bộ Chính trị họp, có Bác Hồ đến dự, để nghe Quân ủy báo cáo kế hoạch tác chiến Đông-Xuân. Sau khi nghe tình hình, điểm nổi lên: “Na-va tập trung quân cơ động”… Bác nói: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh. Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực, thì sức mạnh đó không còn”. (Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, tr.26). Lúc đó bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón tay trỏ về một hướng. |
Hội nghị phê duyệt phương án và nhấn mạnh phương châm “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Thực vậy, nếu không chủ động, tích cực thì sẽ bị động với tướng Na-va hiếu động, đang cố muốn giành lại quyền chủ động, gây uy tín với Chính phủ Pháp. Với đối phương đang nắm lực lượng dự bị mạnh, có sức cơ động cao, nếu cứng nhắc một phương án nào cũng dễ tổn thất. Na-va đã có nhiều hành động bất thường, ngoài dự kiến ban đầu của ta. (Nhảy dù xuống Lạng Sơn, rút Nà Sản, đánh ra tây nam Ninh Bình…).
Kết thúc hội nghị, Bác nói: “… Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải “Thiên biến vạn hóa”.
Về ta, lúc này theo phương châm của Bộ Chính trị và lời kết luận của Bác mà ra sức thực hiện, nắm chắc âm mưu và hành động của Na-va để chủ động, cơ động, linh hoạt để vẫn giữ quyền chủ động. Cả về chiến lược, chiến dịch. Ngay sau đó, năm đòn tiến công chiến dịch nhưng mang ý nghĩa chiến lược đã được thực hiện. Với 5 đòn tiến công chiến lược này Na-va không thể không đưa khối chủ lực cơ động tới ứng cứu các nơi, dẫn đến lúc Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lâm chung, thì ông ta không còn vét đâu ra quân để tăng viện Tư tưởng “Thiên biến vạn hóa” về quân sự mà Bác đã chỉ ra chính là phải như vậy.
ĐÀM TÁI HƯNG