 |
| Cựu chiến binh Trần Xuân Châu |
Ngày truyền thống của bộ đội ra-đa anh hùng là
1-3-1959, nhưng ít người biết trước đó 4 năm, quân đội ta đã có những trắc thủ đầu tiên. Mùa xuân 1955, 18 người sau khi được bí mật cử đi học kỹ thuật ra-đa tại Trung Quốc đã trở về bủa đi các đơn vị tìm người mở lớp huấn luyện. Tên tuổi 63 học viên đào tạo trắc thủ ra-đa đầu tiên được giữ kín do yêu cầu nhiệm vụ. Cựu chiến binh Trần Xuân Châu, hiện trú tại xóm 6, xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An là một trong những người ấy.
Trước khi trở thành một trong 63 trắc thủ ra-đa đầu tiên của quân đội ta, mùa đông 1953, ông Trần Xuân Châu là chiến sĩ đoàn H09 - Đại đoàn 312 (nay là Sư đoàn B12). Lúc nhập ngũ, không đủ cả trọng lượng lẫn chiều cao, chàng trai xứ Nghệ tìm kế “qua mặt” đơn vị tuyển quân bằng cách mặc quần của anh trai và nhồi nhét đá để nâng trọng lượng cơ thể từ chưa đủ 40kg lên 43kg. Phải cố gắng lắm ông mới hành quân được quãng đường gian nan từ Diễn Châu lên tận Điện Biên Phủ. Trận đánh lịch sử đêm 29 rạng sáng ngày 30-4-1954, đơn vị ông phải mất nhiều đợt tổ chức tấn công, thương vong rất nhiều trong lúc vượt cửa mở mới chiếm được mục tiêu. Cả đại đội hơn trăm người chỉ còn mươi người sống sót. Ở tuổi 17, ông được tặng thưởng huân chương Chiến công do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký vào ngày 2-9-1954, có nội dung “Để tưởng lệ công trạng đối với Tổ quốc”.
Tại chiến dịch Điện Biên Phủ, ông bị mắc bệnh kiết lỵ đến nỗi có thời điểm không mặc nổi quần và cứ phải nằm dưới hầm. Bệnh kéo dài mãi tới năm 1960 thì cắt hoàn toàn trong một tình huống khá ly kỳ sau khi hoàn thành lớp đào tạo trắc thủ ra-đa năm 1955. Lần đó, ông nằm ngửa dưới gầm máy hút xăng và bị xộc trào vào bụng nên phải đi cấp cứu. Thoát chết ngạt xăng, đồng thời căn bệnh lỵ mãn tính cũng tự động khỏi từ khi đấy.
Sau khi học khóa đào tạo trắc thủ ra-đa năm 1955, ông được điều về Quân chủng Phòng không - Không quân và đã tham gia hầu hết các mặt trận chiến đấu của bộ đội ra-đa. Tháng 9-1959, ông về Sư đoàn B67 phòng không bảo vệ bầu trời Thủ đô. Năm 1966, ông đã là chính trị viên đơn vị 3, Trung đoàn H21 bảo vệ miền Bắc. Sau đó, ông dẫn hai tiểu đoàn thuộc quân chủng sang chiến đấu tại Lào với chức vụ chính trị viên tiểu đoàn. Những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông làm chủ nhiệm chính trị, rồi phó chính ủy Đoàn H16.
Liên tục phải bám trận địa tại các điểm cao trọng yếu, thật khó có một khoảng thời gian nghỉ phép. Ngay cả khi cưới vợ, Trần Xuân Châu cũng chỉ được nghỉ vài ngày. Bấy giờ vào năm 1961, là thời điểm thế trận phòng không diễn ra vô cùng ác liệt. Sau lễ tân hôn được 3 ngày, ông lại phải lên đường làm nhiệm vụ. Thời gian yêu đương của ông với người vợ hiền Phan Thị Bích trước khi cưới cũng… không có. Lúc đó, chàng trai 24 tuổi Trần Xuân Châu được không ít “gái má hồng” trông ngóng nhưng phần lý lịch của họ không bảo đảm cho vai trò chiến đấu của ông, bởi khi ấy, bộ đội ra-đa vẫn còn là một ẩn số đối với địch và cần phải giữ bí mật. Mãi sau, nhờ người thân “mai mối”, ông mới quen con gái của trưởng công an huyện Nghĩa Đàn và bén duyên chồng vợ.
Chuyện ly biệt trong chiến tranh là thường tình nhưng suốt 28 năm chờ chồng, vừa tần tảo nuôi con vừa chăm sóc cha mẹ, lại tham gia các phong trào đoàn thể hậu phương hết mình và được tặng thưởng nhiều huy chương thì vợ ông đúng là người phụ nữ “đa đảm đang”. Bốn lần bà Bích sinh con thì cả 4 lần ông đều vắng nhà. Hai cô con gái đầu là Trần Thị Thơ năm 1962 và Trần Thị Hồng năm 1965. Khó khăn nhất là lúc sinh người con thứ ba Trần Phan Nguyên đúng vào mùa bão lũ, nước dâng cuồn cuộn ngập cả nhà cửa. Sau Tết Mậu Thân 1968, pháo kích từ ngoài biển câu vào, máy bay giội bom ồ ạt… Dưới nước, trên bom đạn, hai mẹ con nằm trên chiếc giường nổi lềnh bềnh giữa bốn bể nước suốt 4 ngày liền. Mùa màng thất bát, cơ cực vô cùng. Cậu con trai út Trần Văn Khiêm sinh năm 1976, lúc đó ông Châu đang ở Cam Ranh.
Sau giải phóng, ông Châu được điều về Tổng cục Kỹ thuật. Năm 1979, ông làm trưởng ban tuyên huấn Đoàn B26, rồi phó chính ủy Trung đoàn N41, tham gia chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc. Năm 1988, ông về hưu với quân hàm trung tá.
Vốn tính thẳng thắn nên ngay sau khi nghỉ hưu, ông được nhân dân địa phương tín nhiệm bầu làm thanh tra nhân dân 10 năm liên tiếp cùng nhiều chức vụ khác như: Hai nhiệm kỳ đảng ủy viên Đảng bộ xã, 3 nhiệm kỳ chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã; 3 nhiệm kỳ phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã…
Hằng năm, lớp 63 trắc thủ ra-đa đầu tiên tại Việt Nam vẫn tổ chức gặp mặt tại Thủ đô để ôn lại một thời “vạch nhiễu tìm thù”, mở đường cho bộ đội ra-đa sau này. Họ đã đi qua những năm tháng âm thầm, bí mật và trưởng thành, người là Anh hùng lực lượng vũ trang, người là cán bộ cao cấp. Trong số những người “khai thiên lập địa” ngành ra-đa, có thể ví trung tá Trần Xuân Châu như nốt “trầm” nhất giữa dàn đồng ca hùng tráng…
Bài và ảnh: Đặng Vương Hưng