 |
Tướng Đờ Cát và toàn bộ Ban Tham mưu đầu hàng. Ảnh tư liệu |
(
Tiếp theo và hết)
Còn ở Ninh Thuận, ta tiêu diệt một loạt cứ điểm: Hoài Trung, Hữu Sanh, Hữu Đức, Long Ninh, Ninh Chữ, Bình Nghĩa, phá vỡ từng mảng đồn bốt địch, đánh tê liệt đường 11 Phan Rang đi Đà Lạt.
Những hoạt động của ba thứ quân ở Liên khu 5 đã đánh mạnh vào tinh thần binh lính địch, làm chúng dao động, hoang mang, đào ngũ tập thể, bắn giết chỉ huy... Như lính của binh đoàn 21 không chịu ra quân, bọn ngụy ở các đồn Phú Ân, Núi Hồng, Màng Màng (bắc thị xã Tuy Hòa) bắn chết bọn chỉ huy người Pháp, mang súng chạy về vùng giải phóng.
Trong điện hướng dẫn hoạt động, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: quân dân Liên khu 5, cả chủ lực đánh lên bắc Tây Nguyên và các tỉnh vùng tự do cũng như các tỉnh phía sau lưng địch, đã tích cực, chủ động đánh địch, phối hợp nhịp nhàng với chiến trường Điện Biên Phủ từ khi chưa bắt đầu và đặc biệt quá trình diễn biến chiến dịch.
Là bộ phận theo dõi chiến trường xa, phục vụ sự chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh, Thường vụ Quân ủy, mà trực tiếp là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, chúng tôi càng thấy rõ: từ khi chiến dịch đỉnh cao của Đông Xuân 1953-1954 chưa bắt đầu, đến quá trình chiến dịch diễn biến, Liên khu 5 là chiến trường phối hợp, chặt chẽ nhất với Điện Biên Phủ.
Ngày 7-5-1954, ta tiêu diệt hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm của Pháp ở Điện Biên Phủ. Sáng 9-5, anh Văn vào Điện Biên Phủ để trực tiếp nghiên cứu cách phòng thủ một tập đoàn cứ điểm lớn của địch. Chúng tôi cũng được đi theo. Tôi nhớ trước lúc lên ngựa, anh nhìn thẳng tôi, và nói vui: “Bây giờ cậu Đức không đeo bám đòi điện nữa chứ gì?”. Tôi cũng mạnh dạn thưa: “Dạ vẫn còn chứ ạ. Vì Liên khu 5-Nam Bộ và Bình Trị Thiên còn tiếp tục đánh mà”. Đúng là lúc này trên các chiến trường, sức tấn công của ta có phần giảm vì đã gần 5 tháng liên tục chiến đấu. Nhưng ở Liên khu 5, lực lượng của ta vẫn còn: chủ lực tăng 2.590 so với lúc đầu, lại có nhiều chiến thắng nên quân dân Liên khu 5 hồ hởi, càng phấn chấn, bỏ xa nỗi lo âu của những ngày đầu Na-va tập trung một lực lượng lớn hăm dọa xóa sạch 3 tỉnh mới vùng tự do. Trước tình hình mới, cuối tháng 4-1954, Thường vụ Liên khu ủy và Đảng ủy mặt trận có cuộc họp nhằm đề ra chủ trương tác chiến mới thích hợp, vừa có kế hoạch cho bộ đội nhất là các đơn vị chủ lực luân phiên nghỉ ngơi, rút kinh nghiệm, bổ sung trang bị và củng cố nhằm uốn nắn một số tư tưởng chủ quan đã bắt đầu xuất hiện. Hội nghị thống nhất:
- Các đơn vị chủ lực luân phiên một thời gian ngắn, 1/3 về vùng tự do vừa nghỉ ngơi, vừa rút kinh nghiệm, lại kết hợp giúp những địa phương chưa có địch chuẩn bị sẵn sàng đánh địch tấn công tiếp.
- Tiếp tục động viên sức người, sức của của nhân dân với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để chiến thắng”.
Về tác chiến của chủ lực, hội nghị cũng đề ra phương châm rất đúng: “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, bảo đảm chắc thắng”. Hướng là chủ lực cố đánh mạnh, luồn sâu vào phía sau lưng địch. Đồng thời phải có một bộ phận chủ lực cùng các tiểu đoàn tập trung, các đại đội độc lập và dân quân du kích bám sát, tiêu hao tiêu diệt nhằm vào địch ở thị xã Plei-cu, trên đường 19 là Đắc Đoa, Măng Giang, An Khê, ở đồng bằng là Quy Nhơn (Bình Định), Tuy Hòa, Sông Cầu, Chí Thạnh (Phú Yên).
Nhân dân 3 tỉnh vùng tự do (Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) và hơn nửa tỉnh Quảng Nam hăng hái đóng góp hàng chục nghìn tấn lương thực, tích cực tham gia dân công tiếp tế cho các chiến trường, thanh niên hăng hái gia nhập bộ đội. Nên chỉ một thời gian chừng một tháng các đơn vị chủ lực đều đã được bổ sung quân số.
Lúc này trên đường 19 từ Plei-cu đến An Khê, Pháp còn lại binh đoàn 100 và một số tiểu đoàn không quân chốt giữ Hạ Khê, binh đoàn 42 giữ Plei-cu. Trước tình hình trên toàn quốc, địch rút bỏ nhiều địa bàn, nhiều đồn bót. An Khê lại đột xuất, xa Plei-cu, địch đến cần thường xuyên tiếp tế bằng máy bay, Bộ tư lệnh mặt trận lệnh cho trung đoàn 96 phải bám sát động tĩnh của binh đoàn 100 ở An Khê.
Ngày 23-6-1954, ta phát hiện địch cho binh đoàn 42 chiếm giữ các cao điểm khống chế từ Plei-cu đi Măng Giang. Trong lúc ấy, phía An Khê địch cũng cho phá một số công sự. Rõ ràng địch muốn rút An Khê. Địch gồm 5 tiểu đoàn: 3 tiểu đoàn của binh đoàn 100, một tiểu đoàn khinh quân 520 và một tiểu đoàn pháo binh 105. Phía ta, trung đoàn 96 chỉ có 2 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn trợ chiến và 2 đại đội của trung đoàn 120 phối thuộc, tỉ lệ địch 2, ta chỉ có 1. Nhưng trung đoàn 96 quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch rút lên vì sau Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, binh lính Pháp trên chiến trường cũng như chính phủ phản động Pháp bị một đòn choáng váng khủng khiếp, nên địch có đông hơn nhưng là những tên “vô hồn”, chủ trương đánh cả toàn bộ địch rút là hoàn toàn đúng. Ngày 24-6, cả đoàn xe 200 chiếc lần lượt lọt vào trận địa ta đã đón sẵn. Trải qua gần 2 giờ chiến đấu, ta làm chủ hoàn toàn trận địa, trên 3km. Ở khúc đèo Đắc Pơ, hơn 700 tên lính Âu Phi bị chết, gần 1.200 tên bị bắt. Tên đại tá Ba-ru, tư lệnh binh đoàn 100 và toàn bộ ban tham mưu bị bắt. 229 xe cơ giới, 20 đại bác, hơn 1.000 súng các loại đã lọt vào tay ta. Trận đánh giao thông Đắc Pơ là trận đánh tiêu diệt lớn của quân dân miền Nam Trung Bộ, mà có lẽ cũng là trận tiêu diệt gọn của quân đội ta, bằng mưu trí và anh dũng.
Sung sướng nhất cho quân dân Liên khu 5, chiến thắng Đắc Pơ được Bác Hồ kính yêu gửi thư khen ngợi, Người căn dặn:
“… Bác khuyên toàn thể cán bộ, chiến sĩ, cần phải nắm vững tình hình địch, thi đua giết giặc lập công, phải ra sức dân vận và ngụy vận. Chớ vì chiến thắng mà kiêu và chủ quan khinh địch, ra sức tranh thủ lấy thành tích cao hơn nữa.
Bác chờ nhiều tin thắng lợi của các chú và chào thân ái, hỏi thăm đồng bào trong đó”.
Chào thân ái và quyết thắng
Bác
Hồ Chí Minh"
(Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bộ đội Liên khu 5 sau chiến thắng Đắc Pơ, hiện lưu giữ tại Phòng lịch sử quân sự Quân khu)(1).
Với bản thân tôi, có hai kỷ niệm về chiến thắng Đắc Pơ: Một là cả tổ miền Nam nhất trí đề nghị Bộ trưởng, Tổng tư lệnh tặng huân chương Quân công hạng hai cho trung đoàn 96 và Quân công hạng 3 cho Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu (sau này anh Châu là Thượng tướng, Tư lệnh Quân đoàn 4 và Quân khu 7). Anh Văn hoàn toàn nhất trí, nhưng anh bảo tôi sang báo cáo với Tổng cục Chính trị vì khen cấp trưởng thì phải do cơ quan chính trị đề xuất trước, Bộ quyết định sau cho đúng nguyên tắc. Tôi báo cáo với anh Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chủ nhiệm chính trị chiến dịch. Anh bảo nếu tặng huân chương Quân công hạng 2 cho trung đoàn 96 thì sau này có đơn vị đánh giỏi hơn thì lấy huân chương nào mà tặng. Nghe tôi báo cáo, anh Văn suy nghĩ, cuối cùng anh chỉ thị: "Thôi cậu ạ, cơ quan chính trị đã có ý thì ta cũng nên tôn trọng". Về sau tôi chỉ ân hận sao lúc đó không báo cáo với anh Liêm "còn có huân chương Quân công hạng nhất". Kỷ niệm thứ hai: sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tôi được cử vào Ban liên hiệp đình chiến Liên khu 5 cương vị là Phó trưởng đoàn, đồng thời là phái viên của Liên hiệp đình chiến Trung ương. Xin nói rõ là chỉ phái viên chứ không phải là ủy viên. Đại diện cho lực lượng vũ trang Liên khu 5 hồi ấy là Trung tá Hồ Xuân Anh mới chính thức ủy viên.
Sau chiến thắng Đắc Pơ, thừa thắng quân ta tiêu diệt một bộ phận binh đoàn 42, quét sạch địch trên đường 19, giải phóng hoàn toàn huyện An Khê và phần lớn tỉnh Gia Lai, tiếp tục bao vây cô lập Plei-cu. Phía Phú Yên, đêm 1-6-1954, trung đoàn 803 diệt cụm cứ điểm Tuy Bình, buôn Ai Riêng, buôn Thô giáp ranh hai tỉnh Phú Yên, Đắc Lắc, tiêu diệt 1 tiểu đoàn và 3 đại đội, bắt sống hơn 600 tù binh. Thừa lúc quân Pháp ở Phú Yên vội vàng rút chạy khỏi thị xã Sông Cầu (tỉnh lỵ của Phú Yên hồi ấy) và Chí Thạnh, trung đoàn 803 tiến công tiêu diệt một loạt cứ điểm trong một khu vực dài hơn 10km, rộng hơn 6km, nằm sát Huy Hòa về phía bắc. Màng Màng, Núi Sầm, Núi Hồng, tập kích bãi xe, kho xăng, kho đạn và tiểu đoàn khinh quân ngay trong trung tâm thị xã Tuy Hòa. Kết quả ta diệt tiểu đoàn 717 ngụy, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn khác, hư hỏng hơn 200 xe. Bốn ngày sau, trung đoàn lại diệt 1 đoàn xe 79 chiếc trên Đèo Cả, cắt đứt nguồn tiếp tế toàn bộ từ Khánh Hòa cho bọn địch ở thị xã Tuy Hòa.
Ở Quảng Nam, quân dân ta cũng đánh thắng lớn: 4 lần tấn công thị xã Hội An, diệt và bị thương gần 1.000 tên. Riêng trận đêm 30-4, ta đã phá nhà lao giải thoát hơn 1.000 cán bộ, chiến sĩ và đồng bào, diệt và bắt sống gần 500 tên. Tiếp đến tiến công tiêu diệt một loạt đồn bót, tháp canh của địch trên cả 4 huyện Điện Bàn, Hòa Vang, Đại Lộc, Duy Xuyên.
Ở Khánh Hòa, ta diệt hàng loạt cứ điểm của địch, giải phóng khu vực Hòn Khói, mở rộng vùng giải phóng bắc tỉnh từ ven vùng rừng núi đến sát bờ biển, cô lập các thị trấn Ninh Hòa, Vạn Giã nằm trên trục đường quốc lộ 1A.
Quân dân Ninh Bình Thuận diệt các cứ điểm Bầu Gia, sông Lòng Sông, tiếp tục đánh giao thông đường quốc lộ 1 và 11. Nhân dân khu căn cứ Lê Hồng Phong nổi dậy cùng lực lượng vũ trang tấn công phá vỡ từng mảng hệ thống cứ điểm địch ở phía bắc nối liền khu căn cứ Bình An. Ở Ninh Thuận, ta mở rộng vùng giải phóng từ căn cứ Bác Ái đến đông nam thị xã Phan Rang.
Riêng trong tháng 7-1954, ở Tuy Hòa ta thọc sâu đánh phá các kho dự trữ của Pháp sát thị xã.
Trên Tây Nguyên, trung đoàn 96 siết chặt vòng vây, dùng pháo lấy được trong trận Đắc Pơ bắn vào cụm cứ điểm Cheo Reo, địch càng hoảng sợ. Ngày 17-7, bọn địch ở Plei-cu tháo chạy về Buôn Ma Thuột bị trung đoàn 108 vừa củng cố ở vùng tự do Quảng Ngãi, được lệnh cấp tốc hành quân lên nam Tây Nguyên cùng các trung đoàn 96 và 803 tiếp tục chiến đấu. Trung đoàn 108 cùng một tiểu đoàn của trung đoàn 803 chặn đánh binh đoàn 42 ở chân đèo Chư Ré, bắc thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 15-20km. Sau 2 giờ chiến đấu, ta diệt 300 tên, hủy 62 xe cơ giới, bắt sống 200 tên. Trung đoàn đang có kế hoạch tấn công tiếp vào Buôn Ma Thuột thì được lệnh ngừng chiến, thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Cùng ngày 17-7, cắt đứt đường 21 ở khu vực Ma Đờ Rắc, trung đoàn 803 đang mở đường vòng về nam thị xã Buôn Ma Thuột, cũng được lệnh ngừng hoạt động.
Còn ở Quảng Nam, đêm 19-7, lực lượng vũ trang của tỉnh cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích tập kích hai tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo tại Bồ Bồ, diệt và bắt sống 700 tên lính Âu Phi, trong này có tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng, sau được ta trao trả cho Pháp. Tên thiếu tá này được cử vào ban liên lạc Việt-Pháp ở Liên khu 5, y đã tự nguyện giúp cho ta một số tin tức tốt qua các buổi thương lượng giữa hai bên.
Đến giữa tháng 7-1954, cuộc tấn công liên tục của quân dân Liên khu 5 hướng theo "ngón tay trỏ ra của Bác", qua 7 tháng chiến đấu đã tiêu diệt 28 nghìn địch, thu hơn 7.500 súng các loại, trong đó có hàng chục đại bác và hàng trăm xe cơ giới. Đã đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân Át-lăng, bước thứ nhất quyết định trong kế hoạch Na-va, giữ vững vùng tự do Nam-Ngãi-Bình-Phú, giải phóng toàn bộ tỉnh Kon Tum và phần lớn tỉnh Gia Lai và nhiều vùng đông dân khác ở nam Tây Nguyên và các tỉnh bị tạm chiếm ở đồng bằng ven biển. Đến cuối tháng 7-1954, ta đã tạo ra thế bao vây, chia cắt từng cụm quân địch ở Tây Nguyên cũng như ở đồng bằng ven biển, hình thành thế trận tấn công rất thuận lợi ở chiến trường phía nam Liên khu và đông bắc Cam-pu-chia"(2). Đây là thắng lợi lớn nhất của quân dân Liên khu 5 trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp.
"Đối với chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ thì nhiệm vụ là đẩy mạnh chiến tranh du kích, lợi dụng điều kiện thuận lợi mới do quân địch phải tập trung nhiều lực lượng đi các chiến trường mà tăng cường hoạt động đánh nhỏ, ăn chắc, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh ngụy vận, mở rộng các căn cứ du kích và khu du kích. Nhân dân và bộ đội ta ở vùng tự do khu 9 càng ráo riết chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công có thể xảy ra của địch"(3).
Chấp hành nhiệm vụ được giao, Trung ương Cục quyết định "chuẩn bị đón thời cơ mới", đẩy mạnh tấn công về quân sự, chính trị kết hợp chiến dịch địch ngụy vận. Trung ương Cục đề ra ba nhiệm vụ: Một là giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích; hai là mở rộng khu căn cứ; ba là đẩy mạnh công tác địch vận"(4). "Ở Nam Bộ trong suốt thời gian Đông Xuân, quân ta đã ra sức đẩy mạnh hoạt động phối hợp. Do lực lượng cơ động của địch bị điều động đi các chiến trường khác, do sự cổ vũ của những chiến thắng liên tiếp của quân dân ta trên nhiều mặt trận, lại do phương châm hoạt động được xác định đúng đắn, một số khuyết điểm trước đây được khắc phục, nên chiến tranh du kích có đà phát triển mạnh mẽ, thu được thắng lợi rất lớn. Hơn 1.000 đồn bót, tháp canh của địch bị tiêu diệt hoặc bức rút. Vùng tự do khu 9 giữ vững và mở rộng. Các căn cứ du kích và khu du kích lớn nhỏ đều được khôi phục và mở rộng rất nhiều. Nhiều địa phương mới được giải phóng. Số địch ra hàng lên tới hàng nghìn, về sau lên tới hàng vạn"(5).
Các tiểu đoàn chủ lực Quân khu và tỉnh đều tiến vào vùng tạm bị chiếm, nơi địch thường khoe khoang là sân sau của chúng, mà tấn công tiêu diệt chúng và đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích. Có nhiều tiểu đoàn, nhiều địa phương có những trận diệt đồn, tập kích, phục kích đánh quân tiếp viện của địch bằng đường bộ, đường sông, có chất lượng tốt, diệt nhiều địch, thu nhiều vũ khí, mở rộng nhiều khu du kích và căn cứ.
Ở miền tây Nam Bộ, tiểu đoàn 307 cùng bộ đội địa phương 3 lần đột nhập thị xã Rạch Giá, 5 lần tấn công thị xã Rạch Sỏi, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn quân ngụy (14 và 15), bao vây uy hiếp 40 đồn bót trên lộ Rạch Sỏi, Minh Lương, Bến Nhất. Kết quả ta diệt gần 900 tên, bắt 95 tên, rã ngũ 327, bức rút 22 đồn, đánh chiếm 3 tàu, thu 125 súng. Hơn 200 thanh niên nhập ngũ. Tiếp theo, tiểu đoàn 307 cùng đại đội bộ đội địa phương tỉnh, mở rộng hoạt động ở quận An Biên. Qua một thời gian bao vây và đánh bại các đại đội địa phương của địch đến giải vây, ngày 3 và 4-3-1954, các đồn bốt chung quanh quận lỵ An Biên bị diệt, bức hàng và rút chạy. Ta đánh tan 3 tiểu đoàn địch đến giải vây, có trận diệt gần hết tiểu đoàn 552, chỉ còn 12 tên chạy thoát. Đến cuối tháng 3-1954, ta tiêu diệt quận lỵ An Biên, bắt tên quận trưởng, kêu hàng các đồn bốt chung quanh. Đây là quận lỵ đầu tiên ở miền tây Nam Bộ, cũng là ở Nam Bộ được giải phóng trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp. Ta đã thu hơn 400 súng.
Ở Sóc Trăng, qua hai đợt hoạt động phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, quân dân ta đã diệt 4 đồn (có đồn Trà Môn) bức rút và ra hàng 27 lô cốt, tháp canh, phá rã 22 sóc Khơ-me vũ trang. Chính quyền dân chủ nhân dân và lực lượng dân quân du kích có trang bị đầy đủ được xây dựng tại vùng nơi có đông đảo đồng bào Khơ-me sinh sống.
Từ tháng 11-1953 đến tháng 4-1954, toàn tỉnh Vĩnh Trà diệt 339 tên địch, làm bị thương 219 tên, gọi ra hàng 331 tên, phá rã 772 bảo an, đào rã ngũ 2.102 tên, đốt 1 kho xăng khá lớn, phá rã tề ngụy tại 20 xã. Song song với tác chiến, ta còn tuyên truyền vận động làm rã 6 đoàn bảo an lính Hòa Hảo, hơn 450 tên bỏ ngũ chạy về nhà. Đặc biệt, chỉ riêng nửa tháng 5-1954, quân dân Trà Vinh đã diệt và làm bị thương hơn 3.700 tên, bức hàng 62 đồn bốt (có 27 đồn bắt bằng binh vận).
Ở Bến Tre, ta diệt 29 đồn, phần lớn là bọn chỉ huy bảo an, bức hàng và rút 118 tháp canh, làm rã hơn 30 tề xã. Có trận đánh chìm 3 tàu và diệt gần hết tiểu đoàn 501 ngụy.
Trong thông cáo đầu tiên chiến thắng Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, đến các bài báo bình luận, các hội nghị tổng kết, các buổi trả lời các nhà báo trong và ngoài nước và diễn văn đọc tại buổi lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ ở Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn luôn nhấn mạnh chiến thắng Đông Xuân, chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của toàn quân, toàn dân cả nước. "Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ cùng với chiến thắng Đông Xuân trên các chiến trường cả nước đã đưa đến hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giải phóng Thủ đô Hà Nội, giải phóng miền Bắc" (Báo QĐND ngày 6-5-2004, tr.1và 2).
(1) Sách đã dẫn, tr.263-264.
(2) Điện Biên Phủ-Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb CTQG, năm 1994, tr.90-91.
(3) Quân khu 8, ba mươi năm kháng chiến, Nxb Quân đội ,1998, tr.263-264.
(4) Điện Biên Phủ: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, năm 1994, tr.108-109.
(5) Báo Quân đội nhân dân, ngày 6-5-2004, tr.3.
Trung tướng-PGS LÊ HỮU ĐỨC