Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chủ trương, kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954 và mở chiến dịch Điện Biên Phủ (1953). Ảnh tư liệu
(Tiếp theo số trước)

Tranh thủ thời cơ thuận lợi, Liên khu 5 sử dụng Trung đoàn 108, phát triển tấn công ra phía Tây Bắc, diệt toàn bộ quân địch từ Đắc Tô đến Đắc Lây, giải phóng toàn vùng bắc Kon Tum, nối liền vùng tự do Nam Ngãi với căn cứ cách mạng của bạn ở Hạ Lào. Nói chung, hướng Trung đoàn 108 là thuận lợi, còn hướng phát triển của Trung đoàn 803 vào thẳng Kon Tum có khó khăn chính về lương thực, chỉ mới diệt được một đại đội của GM100 ở Kon Som Lũ phía đông bắc thị xã Kon Tum, nhiệm vụ chính phát triển bám đường 14, nam thị xã Kon Tum còn gặp khó khăn. Với kinh nghiệm dày dạn chỉ đạo qua các chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào, Sầm Nưa và gần đó nhất là Lai Châu, anh Văn đã điện cho anh Chánh: "Nếu khó khăn chưa đưa được cả trung đoàn thì đưa từng tiểu đoàn, thậm chí không đưa được tiểu đoàn thì lần lượt từng đại đội vào thị xã. Lúc này đưa được 1-2 đại đội bám đường 14, nam thị xã Kon Tum đánh được một vài trận tiêu diệt địch cỡ trung đội, đại đội địch thì thắng lợi lớn, cũng không loại trừ có chiến thắng đột biến".

Theo chỉ thị đó của anh Văn, ngày 4-2-1954, tiểu đoàn đi trước của Trung đoàn 803 đã bám đường 14, nam thị xã, tiêu diệt một đại đội địch, diệt 7 xe. Lập tức Na-va lệnh cho Thiếu tướng Bô-pho, Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên của địch bỏ thị xã Kon Tum, rút về cố thủ Plei-cu, đồng thời tạm dừng cuộc hành quân Át-lăng, điều phần lớn lực lượng ở Phú Yên lên tăng cường phòng thủ tuyến đường 19: Plei-cu - An Khê.

Nhưng bọn GM100 sợ không dám rút theo đường 14, không dám đốt kho tàng, phá hủy các phương tiện vũ khí vì sợ có tiếng nổ thì quân ta phát hiện. Chúng để lại toàn bộ xe pháo, thiết giáp, kho tàng và bí mật đi bộ rút theo đường mòn ở tây nam thị xã Kon Tum về Plei-cu. Ngày 7-2-1954, thị xã Kon Tum được hoàn toàn giải phóng. Tin thắng lợi đến Sở chỉ huy Mường Phăng khoảng 17 giờ ngày 7-2. Anh Văn và tất cả chúng tôi rất mừng. Nhưng bỗng anh Văn hỏi, sao một thắng lợi như vậy mà do tham mưu báo cáo, còn anh Chánh ở đâu? Anh vội chỉ thị cho tôi viết điện: "Gửi anh Chánh: Anh hãy lấy tư cách Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy mặt trận cho biết có đúng ta đã giải phóng Kon Tum chưa để tôi kịp báo cáo Bộ Chính trị, báo cáo Bác và cho lên Đài phát thanh. Văn". Cũng khoảng 22 giờ đêm 7-2, có điện trả lời của anh Chánh rất gọn, rất chính xác: "Gửi anh Văn: Hiện tôi đang ở trong thị xã Kon Tum". Có thể nói lần đầu tiên tôi được làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của anh, thấy anh bộc lộ niềm vui tất thắng thật hồ hởi. Anh cho gọi Tổ miền Nam lên nhà làm việc của anh. Tổ miền Nam lúc này, ngoài tôi và anh Đỗ Hữu Nghĩa được phối thuộc hai đồng chí của Cục 2 là anh Quốc Trung và anh Nguyễn Đông(1). Anh Văn vừa phân tích vừa như tâm sự với những cán bộ cấp dưới hết sức cởi mở: "Thế là Plei-cu, Đắc Đoa, An Khê trở thành nơi tập trung binh lực thứ tư của địch. Thế là bộ đội ta đã thể hiện đúng lời dạy của Bác Hồ: “... Ta buộc địch phân tán binh lực thì thế mạnh đó không còn”. Ta đã tạo ra được một số trận đánh rất chủ động, bắt Na-va phải bị động theo ý đồ chiến lược của Bộ Chính trị, của Bác. Thật hoàn toàn bất lợi cho Na-va trước khi ta tấn công Điện Biên Phủ thì trên chiến trường Đông Dương đã có 3 tỉnh hoàn toàn được giải phóng: Ta có hai và bạn Lào có một. Thượng Lào, thủ đô Luông Phra-băng đang bị tấn công và con đường chiến lược huyết mạch bảo vệ trung Đông Dương đang có nguy cơ bị cắt đứt. Buộc Na-va phải phân tán lực lượng, hắn có 44 tiểu đoàn cơ động tinh nhuệ thì trên 22 tiểu đoàn đã phải điều đi cấp cứu cho 4 hướng rồi, ở Đồng bằng Bắc Bộ chỉ còn 20 tiểu đoàn. Các cậu có thấy thế không?”. Tất cả chúng tôi chưa kịp trả lời thì anh nói tiếp: “Ở xa Trung ương Đảng, xa Bác, xa Thường vụ Quân ủy Trung ương, nhưng anh Chánh là một đồng chí lãnh đạo có tài, có trách nhiệm cao, được cán bộ và quần chúng tín nhiệm nên mới thuyết phục được và điều bộ đội chủ lực lên bắc Tây Nguyên. Rồi đây có điều kiện gần Trung ương, gần Bác, anh Chánh chắc chắn còn phát triển nữa...”. Tôi đáp lời anh Văn: "Thưa anh, chúng tôi rất nhất trí và tin tưởng chúng ta sẽ toàn thắng trong keo này với Na-va. Riêng tôi cũng bộc lộ thật lòng có lo lắng khi địch tập trung đánh ra vùng tự do mà chủ lực ta lại lên Tây Nguyên...”. Anh nói vui: “Thế bây giờ thì đã mở cờ trong bụng rồi chứ”. Cả 4 chúng tôi cùng cười vui.

Tuy là bộ phận nhỏ theo dõi các chiến trường miền Nam, nhưng anh Nghĩa và tôi phải tham gia trực ban của Cục. Tôi nhớ một hôm tôi báo cáo: đêm qua các trung đoàn của ta trên các hướng đều hoàn thành chỉ tiêu, đào thêm được mấy trăm thước giao thông hào, đúng kích thước mặc dầu bị địch thả pháo sáng, bắn pháo, có hướng địch còn cho bộ binh có xe tăng ra cản phá. Bỗng anh Văn cắt lời tôi và hỏi, nét mặt vẫn vui, pha chút hài: “Này hôm nọ cậu bảo học gần xong phần tú tài toán, sao hôm nay cậu dốt thế? Sao không hỏi các đơn vị là giao thông hào ta còn cách hàng rào hay lô cốt địch mấy chục hay mấy trăm thước, thế có dễ hiểu hơn không?”. Thấy anh bận trăm công nghìn việc mà với cấp dưới có thiếu sót vẫn vui vẻ, nhẹ nhàng uốn nắn, không gắt gỏng, nặng lời, tôi càng xúc động. Còn anh em trong tổ chỉ được một trận cười tưởng vỡ bụng. “Học đến đâu thì việc gì phải tâu với sếp?”. “Có tự động tâu đâu. Vì sếp hỏi mới tâu chứ đâu dám khoe với sếp để mà chết à”. Lại cùng nhau cười ran, và thỉnh thoảng anh em nhắc: "Cậu Tú chú ý, kẻo anh em chúng tôi lại được một bữa cười nữa đấy!".

Là bộ phận theo dõi chiến trường xa, nên trước chiến dịch Điện Biên Phủ chưa bắt đầu, tôi vẫn phải xin chỉ thị của Thủ trưởng Cục, trước khi lên báo cáo Đại tướng Tổng tư lệnh. Nhưng khi chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu thì tôi được phép báo cáo trực tiếp anh Văn. Có thể là buổi sáng, buổi trưa, mà cũng có thể là buổi chiều, thậm chí là buổi tối, rất khuya, chờ lúc chiến dịch Điện Biên Phủ “dịu” tiếng súng.

Ngày qua ngày, mặc dầu phải dốc toàn bộ trí tuệ và sức lực cho chiến dịch chính Điện Biên Phủ (có ngày anh chỉ ngủ được vài ba tiếng và luôn luôn tranh thủ những giây phút rảnh ngủ gà, ngủ gật trong chốc lát), nhưng anh vẫn chăm chú lắng nghe những ý kiến đề đạt của chúng tôi, chắt lọc từng ý, từng lời. Điều gì đúng, anh khẳng định ngay, biểu dương kịp thời và đọc điện cho tôi viết gửi đi các chiến trường. Điều gì chưa đúng, chưa rõ, anh cũng nhẹ nhàng, nhắc nhở phải bàn kỹ với anh em trong tổ. “À, không biết tớ đã nhắc các cậu: ba thợ da chưa nhỉ? Các cậu có khó là xa chiến trường nhưng các cậu cũng có điều thuận lợi là có nhiều thời gian bàn bạc. Cứ cùng nhau trao đổi kỹ, trong cái khó sẽ ló cái khôn đấy”.

Thú thật là tôi cũng chưa từng được làm việc với một đồng chí lãnh đạo nào khi ra lệnh, làm việc thì "quân lệnh như sơn”, nhưng bàn bạc thì hết sức dân chủ, động viên cấp dưới dốc hết bầu tâm sự với lãnh đạo, khi có điều kiện thì vẫn hết sức chú ý tận tình với cán bộ, rất thoải mái, trên dưới chan hòa, đồng tâm hợp lực.

Sau khi chuyển cách đánh, bộ đội ta ở Điện Biên Phủ ra sức xây dựng hệ thống giao thông hào, chuẩn bị cho ngày mở đầu, nên phải chậm mất một tháng rưỡi (13-3-1954). Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, buộc địch tiếp tục phân tán lực lượng, đồng thời cũng là tạo điều kiện tốt để chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ ra lệnh Đại đoàn 308 cùng bộ đội, dân quân Pha-thét Lào tấn công tuyến Nậm Hu và Phông Sa Lỳ. Trải qua bảy ngày đêm chiến đấu (26-1 đến 3-2-1954), truy kích địch trên chặng đường 200km, Đại đoàn 308 với truyền thống “Quân tiên phong” tấn công thần tốc, quét sạch quân địch ở lưu vực sông Nậm Hu, tiến sát Luông Phra-băng 15km, tiêu diệt 17 đại đội, có gần 2 tiểu đoàn (có 1 tiểu đoàn lê dương), mở rộng thêm gần một vạn ki-lô-mét vuông, căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào nối liền khu giải phóng Sầm Nưa với khu Tây Bắc của ta. Na-va buộc phải tiếp tục phân tán lực lượng, Luông Phra-băng trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của địch. Đến ngày 24-1-1954, Na-va phải điều thêm 4 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 3 tiểu đoàn pháo đến Trung Hạ Lào, nâng lực lượng địch ở Trung Hạ Lào lên 26 tiểu đoàn.

Thấy ta chưa tấn công Điện Biên Phủ, Na-va tưởng lực lượng chủ lực ta đã "hết hơi" vì đã tham gia tấn công trên nhiều hướng, thời gian kéo dài, lại bị thương vong nên y huênh hoang thách thức Đại tướng Võ Nguyên Giáp hãy tấn công ngay vào Điện Biên Phủ vì "chúng tôi đã sẵn sàng". Đồng thời, y cố gắng giành lại thế chủ động trên các chiến trường Trung Hạ Lào, Đông Bắc Miên và Liên khu 5.

Ở Trung Hạ Lào, địch sử dụng 2 binh đoàn cơ động số 1 và số 2 (GM1, GM2), chiếm lại thị xã Thà Khẹt, đánh ra Ma-ha xay - Nhom-ma-rạt (trên đường 12) và Lạc Sao, Kam Cớt trên đường 8, nhưng đã bị quân ta đánh mạnh nên chúng chưa chiếm được Ba-na-phao. Ý định địch là muốn đánh sát ra biên giới Việt-Lào ở mút 2 con đường 12 và số 8, nhằm cắt đứt đường vận chuyển từ hậu phương chiến dịch của ta gồm các huyện Hương Sơn, Hương Khê từ Hà Tĩnh, qua các vùng Pa Cuội, đường Pha Lan-Lao Bảo, ngăn ta phát triển xuống Hạ Lào và Đông Bắc Miên. Còn trên đường 9, địch ra sức củng cố đoạn từ Sa-va-na-khẹt đến căn cứ Sê-nô, trọng điểm là Sê-nô. Trước tình hình ấy, sau khi nghe tôi báo cáo, anh Văn chỉ thị ngay: "Cậu nhớ gần ngày ta tấn công Điện Biên Phủ, công việc khẩn trương lắm, nhưng cũng phải tranh thủ thời gian chỉ thị kịp thời cho mặt trận Trung Hạ Lào và Bộ tư lệnh Đại đoàn 325 phải nắm trọng tâm lúc này là nhanh chóng, mạnh bạo phát triển xuống Hạ Lào và Đông Bắc Miên, nơi địch còn nhiều sơ hở. Kết quả chiến đấu của tiểu đoàn độc lập 436 đã chứng minh. Có như vậy mới bắt địch tiếp tục phân tán lực lượng, càng bị động thêm, đồng thời phá được âm mưu chúng muốn bịt hành lang của ta, ngăn cản ta xuống Hạ Lào và Điện Biên Phủ. Cố nhiên phải có lực lượng đánh địch trên đường 12 và đường 8, kiên quyết không cho địch chiếm lại Ba-na-phao và ra sát biên giới trên cả 2 con đường chiến lược quan trọng ấy". Nói xong, anh đọc điện cho tôi viết:

"Bộ gửi Mặt trận Trung Hạ Lào và Bộ tư lệnh Đại đoàn 325.

Cần nhanh chóng:

- Cùng lực lượng bạn Lào bao vây kìm chân quân cơ động địch ở căn cứ Sê-nô; đồng thời có lực lượng chặn đánh cánh quân của địch trên đường 12 và đường 8, nhằm bảo vệ vững chắc hậu phương chiến dịch.

- Phát triển xuống phía nam nhằm triệt để phân tán quân cơ động địch và cùng bộ đội Ít-xa-rắc của bạn Cam-pu-chia giải phóng Đông Bắc Miên, bắt liên lạc với bộ đội miền Đông Nam Bộ.

Để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ, cần điều Trung đoàn 18 sang hoạt động ở Trung Lào, đưa ngay Trung đoàn 101 xuống Hạ Lào và Đông Bắc Miên. Nhận điện báo cáo ngay. Chúc các đồng chí thi đua hoàn thành nhiệm vụ.

Văn".

Thực hiện nhiệm vụ, Trung đoàn 101 tiến ngay xuống phía nam, đồng chí Trần Quý Hai, Tư lệnh kiêm Chính ủy Đại đoàn 325, Chính ủy mặt trận Trung Lào trực tiếp chỉ huy trung đoàn. Bộ đội ta đã cùng quân đội Pa-thét Lào và quân giải phóng Ít-xa-ra (Cam-pu-chia) liên tục tấn công địch, giải phóng lần lượt các thị trấn, thị xã: Vơn-sai, Xiêm Păng sát sông Mê Kông, có tiểu đoàn vượt qua sông tiến về tây nam thị xã Pắc Xế, giải phóng phần lớn tỉnh Kông-pông Chàm. Căn cứ Đông Bắc Miên được nối liền với Hạ Lào và Trung Lào. Trung đoàn 101 đã bắt được liên lạc với bộ đội miền Đông Nam Bộ.

Trung đoàn 101 hoàn thành tốt nhiệm vụ do cán bộ và chiến sĩ nỗ lực hết mình, nhờ sự chỉ đạo đúng đắn kịp thời của Thường vụ Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, đồng thời trung đoàn cũng thừa hưởng được kết quả mà Tiểu đoàn 463, 1 tiểu đoàn độc lập do Bộ trực tiếp chỉ thị tổ chức: chọn đơn vị mạnh, có kinh nghiệm độc lập tác chiến, được ưu tiên trang bị loại vũ khí tốt nhất, đầy đủ nhất, được tăng cường chỉ huy: đồng chí Lê Kích, nguyên Tiểu đoàn trưởng ở Liên khu 5, vừa được đề bạt là Trung đoàn phó, vốn là một cán bộ của đội quân du kích Ba Tơ-Quảng Ngãi. Có lẽ đây là lần đầu tiên, trên chiến trường Đông Dương, một đơn vị nhỏ chủ lực ta phối hợp với chiến tranh nhân dân, du kích của các nước bạn anh em, giành được một chiến thắng có ý nghĩa chiến lược trong một thời gian rất ngắn.

Trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử toàn thắng thì đợt tấn công của ta và bạn trên chiến trường Trung Hạ Lào kết thúc.

(còn nữa)

(1) Anh Quốc Trung: Đại tá, cán bộ Viện lịch sử Quân sự, đã qua đời. Anh Nguyễn Đông, Đại tá chuyên viên Tổng cục 2.

Trung tướng-PGS LÊ HỮU ĐỨC