Mùa thu năm 1967, chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đã “leo thang” đến mức rất cao. Ở Hà Nội, liên tục báo động máy bay. Đồng bào sơ tán khỏi Hà Nội. Gia đình tôi chuyển từ phố Điện Biên Phủ đến số 2 Lý Thường Kiệt, tránh vị trí gần cột cờ.

Tháng 12 năm 1967, anh Lê Quang Đạo, chồng tôi, chuẩn bị đi chiến dịch Đường 9-Khe Sanh. Lúc đó, anh là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, được cử làm Chính ủy Bộ Tư lệnh Mặt trận Khe Sanh. Khe Sanh là một thung lũng nằm ở chân Tây Trường Sơn, trên đường số 9, con đường nối bờ biển Việt Nam với Lào. Mùa hè năm 1967, Oét-mo-len (Westmoreland) quyết định biến vị trí này thành một bàn đạp tấn công, uy hiếp vào tuyến đường mòn Hồ Chí Minh và những căn cứ của ta ở Tây và Đông Trường Sơn.

Anh Đạo và các đồng chí ở cơ quan không nói gì, nhưng tôi biết anh sắp đi B khi nhìn thấy quân trang anh được phát: võng dù, chăn dù, dép cao su…

Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường 9-Nam Lào. Từ bên phải: Các đồng chí Phạm Hồng Sơn, Lê Quang Đạo, Văn Tiến Dũng, Lê Trọng Tấn, Cao Văn Khánh.Ảnh tư liệu

Tôi cẩn thận chuẩn bị hành trang cho anh. Tôi nghĩ rằng anh sẽ phải đi qua nhiều suối, nhiều sông. Chỉ đi đôi dép cao su thì không đủ. Tôi tìm mua cho anh một đôi bốt. Không cửa hàng mậu dịch nào có đôi bốt vừa chân anh. Chân anh nhỏ bằng chân tôi, chỉ đi cỡ 37. Chợt tôi nhìn thấy đôi bốt xanh của thiếu nhi Đức. Tôi mua đôi bốt ấy và tự nhủ: “Lội bùn nhiều chắc màu xanh sẽ phai bớt”. Tôi tìm được cho anh chiếc áo đi mưa màu nâu đỏ bằng vi-ni-lông cho nhẹ. Tuy không biết chiến trường anh Đạo sẽ đến là tỉnh nào ở miền Nam, nhưng chắc chắn không phải đồng bằng. Bây giờ lại đang là mùa đông. Cần có chiếc áo khoác kiểu blu-dông, nhẹ mà ấm cho anh. Tôi tìm thấy trong tủ chiếc áo len dài từ hồi đi học ở Nga. Vải tuy mỏng nhưng rất ấm. Phá chiếc áo dài ấy, tôi may một lần lót mỏng vào trong áo blu-dông của anh. Hai tấm vải dù được máy chồng vào nhau làm chăn đắp. Tôi mua thêm một mảnh vải, may cho anh Lưu Ngọc Bảo (thư ký cũ của anh Đạo) một lớp lót trong giống như áo anh Đạo. Anh Bảo đi chiến dịch cùng anh Đạo với tư cách Trưởng phòng của Cục Tuyên huấn.

Thư đầu tiên, anh Đạo nhờ các đồng chí giao thông đưa về, chữ viết rất nhỏ, giấy rất mỏng. Anh muốn lá thư mang đi đường sao cho thật nhẹ. Anh kể: “Việc chuẩn bị ở nhà kể như là tốt, nhưng có thứ không hợp với anh như đôi bốt xanh, cái áo mưa thì đỏ quá. Chiến sĩ nhìn anh bàn tán, người bảo phóng viên nhà báo, người bảo diễn viên điện ảnh, người bảo đồng chí bạn nước ngoài. Bộ đội tinh nghịch đặt vè cho anh:

Đầu vàng, đít đỏ, chân xanh

Anh đi chiến dịch có nàng ở trong

Để khỏi bị chú ý quá nhiều, anh liền đi dép và khoác ni-lông như mọi cán bộ, chiến sĩ. Vậy mà chiến sĩ ta tinh lắm, vẫn đoán là một cán bộ chỉ huy”.

Anh kể chuyện hành quân:

“Anh như vậy cũng đã được thử thách vài chặng đường trèo đèo lội suối, kể cũng khá gay go đấy. Nhưng xét ra đôi chân vẫn còn tốt, ôn luyện lại cũng không lâu. Đi kịp anh em, lại được biểu dương là đi nhanh, đi khỏe nữa.

Phong cảnh nhiều nơi rất đẹp, nhưng mải miết đi và mệt thở ra tai nên cũng chẳng thưởng thức được bao nhiêu. Bộ đội, thanh niên xung phong nô nức kéo đi như trẩy hội. Lớp thanh niên mới anh dũng, đáng yêu vô cùng. Qua đường họ chẳng biết anh là ai, một số chào: Bố ạ! Gặp một cậu chiến sĩ ở làng Phù Lưu gần làng mình, cậu ấy biết mình. Thế là họ bí mật giới thiệu nhau biết…”.

***

Tuy hoàn cảnh giao thông lúc đó rất khó khăn nhưng vẫn có thể gửi thư từ chiến trường ra Hà Nội. Thư đầu tiên tôi nhận được, anh Đạo viết ngày 23-1-1968, nghĩa là 3 ngày sau khi đã nổ ra cuộc tiến công đầu tiên. Tôi biết anh không liên lạc về gia đình vì muốn giữ bí mật chiến dịch.

Đúng đêm Giao thừa và đêm mồng Một Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc tiến công nổ ra trên toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân làm Mỹ choáng váng. Nhưng tướng Oét-mo-len vẫn dành cho Khe Sanh sự quan tâm đặc biệt. Theo Oét-mo-len, Khe Sanh nằm trong một mưu toan rộng lớn nhằm đánh chiếm những tỉnh phía bắc của Nam Việt Nam trước khi đàm phán. Đài BBC thời gian này luôn đưa tin, theo dõi sự di chuyển của “Tướng Lê Quang Đạo”, học trò tướng Võ Nguyên Giáp. Theo họ, tướng Lê Quang Đạo đi thực hiện ý đồ lập lại một Điện Biên Phủ của tướng Giáp ngày xưa.

Anh Song Hào (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị) từng nói với tôi: “Chiến dịch quyết liệt nhất là ở Khe Sanh, hy sinh gian khổ nhất cũng ở Khe Sanh”.

Ngày 7 tháng 4 năm 1968, anh Đạo viết thư về cho tôi:

“Sống ở đây tương tự như hồi sống ở Việt Bắc. Nhưng phải cảnh giác, kỷ luật phòng không chặt chẽ hơn nhiều. Những lúc vượt đèo núi, xuyên rừng lội suối, anh lại nhớ đến ngày đi cùng Tuệ ở núi rừng Việt Bắc năm xưa, nhất là lúc Tuệ mới ở Khu 4 ra. Tuệ nhớ chứ? Tuệ nhớ năm nay là năm gì không nào? Tháng chín này là kỷ niệm đúng hai mươi năm ngày cưới của chúng mình đấy”.

Khi đọc thư, tôi không biết rằng anh vừa thoát chết mấy hôm trước. Những chuyện này khi anh từ mặt trận trở về tôi mới biết.

Ngay trước hôm nổ súng, sở chỉ huy chiến dịch bị phát hiện do ta thiếu kinh nghiệm: các đường mòn và đường dây thông tin lộ thiên đều châu về đây. Oét-mo-len cho rằng chiến dịch Khe Sanh sẽ là một Điện Biên Phủ mới. Địch còn nhận được tin tình báo cho biết tướng Giáp đang có mặt tại chiến dịch này. Trong hai ngày, máy bay B52 Mỹ tập trung đánh phá sở chỉ huy chiến dịch, một khu vực rất hẹp. Trước đó, Bộ Tư lệnh mặt trận đã phán đoán sở chỉ huy bị lộ và ra lệnh di chuyển. Vừa ra khỏi sở chỉ huy được mấy chục phút, B52 bắt đầu ném bom xuống khu vực. Anh Đạo, anh Trần Quý Hai và các đồng chí cùng đi nằm trong bãi bom B52 nhiều giờ liền. Bom ném vào núi, đá đổ xuống đã làm nhiều người bị thương. Anh Đạo được anh Hóa, bảo vệ của anh, đẩy vào một hốc đá và nằm đè lên. Anh Hóa bị thương do đá đè vào người. Anh Cao Văn Khánh có kinh nghiệm với bom B52, đã quay lại, dẫn cả đoàn chạy thoát khỏi bãi bom. Sau này, anh Đạo tâm sự với tôi: mình không có kinh nghiệm, sợ lộ nên không dám bật đèn pin lên. Anh Cao Văn Khánh nói: “B52 bỏ bom theo tọa độ, cứ bật đèn chạy”.

Gia đình đồng chí Lê Quang Đạo, hè 1962. (Ảnh do gia đình cung cấp)

Trong đợt địch ném bom sở chỉ huy, cả tiểu đội nữ thông tin liên lạc của tổng đài mặt trận bị hy sinh vì bom lấp trong hang đá. Bộ phận cán bộ của Cục Chính trị Mặt trận bị thương vong nặng nhất. Anh Lưu Ngọc Bảo bị thương nặng và hy sinh tại chỗ.

Một tháng sau, tôi nhận được bức thư anh đề ngày 22 tháng 2 năm 1968. Vậy là thư trước đến sau, thư sau đến trước.

“Nhận được bức thư và chút quà ở đây ý nghĩa thật lớn. Càng phấn khởi bao nhiêu càng cám ơn các đồng chí đã trèo đèo lội suối qua hàng nghìn cây số dưới bom đạn địch mang đến cho. Thật là của một đồng công một nén. Các anh em cùng đi rất tận tụy dũng cảm, nhiều khi làm cho anh rất xúc động. Tuệ ạ, trong lúc gian khổ, nguy hiểm mới thấy hết tình đồng chí với nhau. Gian khổ nhưng thật lạc quan, vui tươi phấn khởi. Tuệ nói với Toản, anh Cao Văn Khánh là tay khỏe nhất ở đây. Tuệ nói với chị Huệ là sức khỏe của anh Trần Quý Hai vẫn tương đối mặc dầu ăn uống, đi lại vất vả khó khăn hơn ở nhà…”.

Những chuyện gian khổ ác liệt nơi mặt trận anh ít kể trong thư. Ngay cả khi đã trở về nhà anh cũng không nhắc đến. Sau khi anh mất, bác sĩ Trung trong đoàn của Bộ Tư lệnh (sau này là người chăm sóc sức khỏe cho anh Đạo) kể lại, thoát bãi bom B52, cả đoàn bị lạc mấy hôm. Mọi người nhịn đói hai ngày. Một đồng chí tìm được nắm gạo thính trong túi, chia ra thành mười ba suất, ăn cho đỡ đói. Mỗi suất chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay. Anh Đạo chia đôi phần gạo thính của mình cho đồng chí liên lạc vừa dậy sau cơn sốt rét.

***

Những ngày này cuộc sống của người dân Thủ đô ở nơi sơ tán rất gian khổ. Những ông bố, bà mẹ ngày chủ nhật đạp xe đến thăm con nơi sơ tán cách bốn năm chục cây số. Họ chất lên xe đạp mì sợi, gạo, nước mắm tiếp tế cho các con. Ở với các con một ngày, có khi chỉ một buổi, họ lại đạp xe về Hà Nội để sáng sớm thứ hai kịp đến cơ quan làm việc.

Thời gian ấy, tôi đang là phóng viên báo Nhân Dân. Một hôm, tôi xuống nhà máy dệt Nam Định, viết về phong trào phụ nữ ba đảm đang. Giờ tan ca, công nhân đổ ra đường đông nghẹt cả lối đi. Có báo động máy bay. Tôi đang đạp xe, đột nhiên xe bị tuột xích. Tôi ngã sấp xuống mặt đường, trán sứt, máu chảy nhiều. Tôi bị rạn xương ống tay, phải nằm viện mất ba tuần. Trán tôi khâu ba mũi. May không bị chấn thương sọ não. Không muốn để anh ở chiến trường nghe tin lại lo lắng, tôi dặn con:

- Ai đến thăm, nói mẹ đi công tác.

Mặt trận Đường 9-Khe Sanh kéo dài. Gần bảy tháng liền, bộ đội ta vây hãm Tà Cơn. Mỹ không biết đây là một chiến dịch nghi binh. Ngoài tư lệnh và chính ủy chiến dịch, không ai biết nhiệm vụ chiến lược thực chất của mặt trận Đường 9-Khe Sanh. Mặt trận này thu hút và giam chân càng nhiều càng tốt các lực lượng tinh nhuệ của địch. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Sau này, anh Đạo nói với tôi: “Khe Sanh, đó là một đòn nghi binh chiến lược”.

Ngày 9 tháng 7 năm 1968, Khe Sanh hoàn toàn giải phóng. Cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chuyển từ chiến lược “Chiến tranh cục bộ” sang “Việt Nam hóa chiến tranh”. Tướng Oét-mo-len bị cách chức. Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Na-ma-ra từ chức. Tổng thống Giôn-xơn đơn phương tuyên bố ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến hai mươi trở ra và chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Pa-ri. Tin thắng lợi Xuân Mậu Thân, Đường 9-Khe Sanh làm nức lòng người.

Tết năm 1969, các gia đình sum họp, ăn Tết vui vẻ, không sợ máy bay ném bom. Tôi đón mẹ chồng ở quê ra Hà Nội ăn Tết. Mọi người đều rất vui. Chỉ có Quang Tuệ (con trai út của chúng tôi) buồn vì con khỉ vàng, tôi đem ở Điện Biên về, đi mất. Thường ngày, tôi buộc nó trên cây phượng. Sợi dây đủ dài để nó nhảy nhót từ cành nọ sang cành kia. Khỉ rất thân với Quang Tuệ. Khu nhà tôi trồng nhiều chuối. Mỗi lần chuối chín, Quang Tuệ đều đem chia cho khỉ. Máy bay ném bom, khỉ sợ quá, cắn đứt dây chạy mất. Bom Mỹ làm đôi ngỗng mẹ chồng tôi nuôi bị lạc nhau. Một con chạy ra đường, xe chẹt chết. Con còn lại nhớ bạn, suốt mấy ngày không chịu ăn gì, gầy rạc. Đêm đêm, nó đi quanh nhà gọi bạn, nghe não nùng, tha thiết…

Anh Đạo ở Trường Sơn đã gần một năm tròn. Nghe tin anh Đạo sắp về, tôi mừng lo lẫn lộn vì đi đường rất nguy hiểm. Chặng đường dài qua nhiều trọng điểm bắn phá của máy bay địch.

Vào một buổi sáng đẹp trời, chiếc xe com-măng-ca đưa anh và các đồng chí cùng đi tiến vào sân giữa tiếng reo vui của các con. Tôi nhìn anh nước mắt chảy quanh. Anh gầy đi nhiều, nước da tái xạm. Bước xuống xe, anh vui mừng ôm mấy mẹ con tôi trong vòng tay, miệng cười tươi.

Nhà văn NGUYỆT TÚ