Từ tháng 1-1955, Đoàn văn công Tổng cục Chính trị tách thành 2 đoàn Kịch nói và Ca múa Tổng cục Chính trị. Từ đó đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị đã xây dựng thành một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp chính quy và hiện đại của quân đội và của nhà nước. Đoàn đã có nhiều lần mặc áo dân sự đại diện cho nghệ thuật ca múa của nước nhà...

Giai đoạn này, đoàn đã sáng tác và biểu diễn nhiều tác phẩm hay nếu không được gọi là bất hủ thì cũng gọi là đã để trong lòng khán giả Việt Nam và bầu bạn trên thế giới và nó cũng đã nằm trong kho tàng nghệ thuật Việt Nam. Trong phạm vi bài này tôi có thể điểm qua và giới hạn đến 1975 mà thôi.

Độc tấu đàn bầu Vì miền Nam sáng tác của Huy Thục do Mạnh Thắng và Nguyễn Tiến biểu diễn. Các ca khúc Tiến bước dưới quân kỳ, sáng tác của Doãn Nho; Bước chân trên dải Trường Sơn và Đường ta đi dài theo đất nước, sáng tác của Vũ Trọng Hối; Người chiến sĩ lái xe, sáng tác của Nguyễn Đức Toàn; Nổi lửa lên em và Trên đỉnh Trường Sơn ta hát, sáng tác của Huy Du; Bài ca bên cánh võng sáng tác Nguyên Nhung; Năm anh em trên một chiếc xe tăng nhạc Doãn Nho, lời Hữu Thỉnh; Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân và Tiếng đàn Ta lư, sáng tác của Huy Thục. Những ca khúc kể trên đều ra đời trên đường đi đánh Mỹ và tập trung nhiều nhất ở Trường Sơn. Duy có bài Tiến bước dưới quân kỳ là sáng tác ở Điện Biên 4 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Và các tác giả của nó nay lấp lánh đầy ngực huân chương Quân công, Chiến thắng, Độc lập v.v.. Tất cả cũng đều mang quân hàm Đại tá. Hai tác giả Huy Du và Nguyễn Đức Toàn đã vinh dự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, các tác giả Doãn Nho, Huy Thục, Nguyên Nhung, Vũ Trọng Hối cũng đã nhận Giải thưởng Nhà nước về phần múa.

Múa nón (Thái Tây Bắc) nhạc của Lê Lan là điệu múa đầu tay của Minh Tiến, anh sáng tác cho festival thanh niên và sinh viên thế giới lần thứ 6 tại Mát-xcơ-va (1957) khi anh 25 tuổi, “Múa nón” đã làm giàu đẹp cho nền nghệ thuật múa Việt Nam. “Múa nón” đã được nhiều giải thưởng quốc tế và quốc gia và được tuyển chọn vào kho tàng múa thế giới. Múa nón là “đột phá khẩu làm bùng nổ” hàng loạt những tác phẩm nổi tiếng khác để ông trở thành Nghệ sĩ nhân dân Đại tá Đỗ Minh Tiến, Múa Roong Chiêng, sáng tác của Ngọc Minh, Nhật Ninh và Đức Trọng (Đức Trọng sau thành Kiên Cường nói trước máy của đài Tiếng nói Việt Nam) nhạc của Văn Thắng, Roong Chiêng giành nhiều giải thưởng quốc tế và quốc gia. Điệu múa điển hình cho phong cách độc đáo của Tây Nguyên nên nó cũng đã nằm trong danh mục của nhiều đoàn nghệ thuật trong quân đội, trong nước và cả kiều bào nữa.

Múa sắc bùa, biên đạo Trọng Lanh dựa bản gốc của Hiền Anh và Thanh Trúc, nhạc của Vĩnh An, vốn là điệu múa chúc phúc, chúc thọ của đồng bào khu 5. Theo gợi ý của Bác Hồ, điệu múa này đã được diễn ở In-đô-nê-xi-a để tặng Tổng thống Xu-các-nô năm 1960. Múa Chàm Rông do Phạm Sỹ chỉnh biên dựa trên bản gốc của dân tộc nam Trung Bộ. Cho đến nay, đâu đó trong các cuộc biểu diễn nghệ thuật quần chúng vẫn đều đặn múa Chàm Rông. Múa Những cô gái Pakô, biên đạo múa Ngọc Minh dựa trên bài ca của Huy Thục mà sáng tác ra điệu múa. Rất tiếc là tác giả đã hy sinh ngay trên mảnh đất mà anh đã sáng tác ra điệu múa này. Trước thời gian hy sinh anh có dặn chúng tôi tên đầy đủ của điệu múa là “Những cô gái Pakô trên đường đi tiếp vận”. Nhưng khi vào các giải thưởng quốc gia và quốc tế cũng chỉ ghi có 3 chữ Múa Pakô. Nói đến các tác phẩm múa, chúng tôi không thể quên những kỷ niệm về múa sạp. Từ mùa đông năm 1951-1952 khi đi phục vụ chiến dịch Hòa Bình, chúng tôi đã thấy xuất hiện những dân công cáng thương binh, họ dùng 2 đòn cáng đập vào nhau để nhảy múa. Đến năm 1953 khi đi phục vụ chiến dịch Tây Bắc chúng tôi lại thấy không chỉ đồng bào Mường ở Hòa Bình mà đồng bào Thái ở Tây Bắc cũng có múa sạp.

Đưa múa sạp lên chuyên nghiệp là đoàn văn công khu Tây Bắc do chị Bích Hà và tập thể làm múa, dựa trên nền nhạc của Mai Sao và Bàng Thúc Hiệp. Khi Điện Biên giải phóng, văn công Tổng cục Chính trị đã chỉnh sửa lần đầu, đưa các anh bộ đội vào múa cùng các cô gái Thái, Mường để mừng chiến thắng Điện Biên. Năm 1960, thấy múa sạp cứ múa mãi dưới mặt đất thì trì trệ quá, ba biên đạo múa Ngọc Minh, Khắc Tuế, Kim Tiến đã dựa trên hình ảnh cái guồng nước của đồng bào miền ngược mà nhấc bổng sạp lên, để có thể thích hợp với múa sạp mới, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đã theo nhịp ngược của nhạc dân gian mà hoàn chỉnh nó. Múa sạp được Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi như một tiết mục “tủ”, mỗi lần tiếp khách, Đại tướng đều yêu cầu phải có múa sạp. Có lần thấy trong chương trình tiếp khách không có múa sạp, Đại tướng hỏi tại sao? Chúng tôi báo cáo là sợ nó cũ. Đại tướng bảo “Cũ ta nhưng mới người”. Lại có lần cũng biểu diễn tiếp khách nước ngoài ở ngoài trời, thấy có cơn mưa Bác Hồ đã chỉ thị “cắt bớt tiết mục, diễn sạp để kết thúc”.

Một đỉnh cao của nghệ thuật múa giai đoạn này là Kịch múa Ngọn lửa Nghệ Tĩnh. Năm 1960, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã mời giáo sư Kim Tế Hoàng, chuyên gia vũ đạo của Triều Tiên sang giúp quân đội ta đào tạo lớp biên đạo đầu tiên cho toàn quân. Các sĩ tử của thầy Kim cả thảy 33 người đã chụm đầu lại để trả bài thầy bằng vũ kịch Ngọn lửa Nghệ Tĩnh. Khi Ngọn lửa Nghệ Tĩnh đã hình thành. Thấy triển vọng khá nên Bộ Văn hóa quyết định mời thầy Kim sang dựng Tấm Cám cho Đoàn ca múa nhân dân Trung ương. Sau đó ít lâu kịch múa Tấm Cám cũng ra đời. Ngọn lửa Nghệ Tĩnh đã vinh dự được phục vụ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, tiếp đó đi phục vụ tuyến đầu giới tuyến Vĩnh Linh. Quân và dân Vĩnh Linh đã được xem một vở kịch múa đồ sộ, thấy lại được hình ảnh đội Xích Vệ của cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931. Ngọn lửa Nghệ Tĩnh đã được sự giúp đỡ của xưởng phim Bát Nhất của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc dựng thành phim nhựa để lưu giữ lâu dài cho hậu thế. Ngọn lửa Nghệ Tĩnh đã được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

12-2006

KHẮC TUẾ