 |
Nhà văn Hữu Mai (thứ hai từ trái sang) và nhà thơ Thanh Tịnh (thứ ba từ trái sang) |
Năm 1969, khi đang công tác ở chiến trường Đà Lạt, tôi bất ngờ nhận được thư của Nguyễn Minh Châu. Phong bì đã sờn mép, chữ đề trên phong bì đã nhoè ra, nhìn qua đã biết đường đi của phong bì thư từ người viết đến tay người nhận. Nguyễn Minh Châu báo tin vừa viết xong tiểu thuyết Dấu chân người lính. Nguyễn Minh Châu kể về các thành viên của tạp chí Văn nghệ Quân đội, qua đó tôi mới biết Xuân Thiều đi chiến trường Thừa Thiên, Hồ Phương, Hữu Mai, Xuân Sách, Phạm Ngọc Cảnh đi chiến trường Quảng Trị. Nguyễn Minh Châu nói thêm, Hữu Mai đã viết xong tập đầu của bộ ba tiểu thuyết Vùng trời về cuộc chiến đấu của không quân ta với không quân Mỹ. Trong những năm ở chiến trường khu 6, ngày ngày làm rẫy thấy từng đàn máy bay cường kích của Mỹ từ căn cứ không quân Biên Hòa bay qua vùng trời khu 6 ra hướng bắc, anh em chúng tôi không ai bảo ai cùng kêu to: “Miền Bắc ơi ! Mỹ ra ném bom đấy”. Hồi còn ở miền Bắc, tôi đã đọc tiểu thuyết Khoảng trời Ban-tích của một nhà văn Liên Xô viết về cuộc không chiến Xô - Đức, nay biết Hữu Mai cũng đang viết về những cuộc không chiến Việt - Mỹ, tôi ao ước một ngày nào đó được đọc bộ tiểu thuyết này.
Sau Hiệp định Pa-ri 1973, liên lạc giữa Hà Nội và R đã được rút ngắn lại tính bằng ngày nhờ tuyến đường bay Hà Nội- Sài Gòn, Sài Gòn- Lộc Ninh, anh em văn nghệ Quân giải phóng bắt đầu nhận được sách báo, chè, thuốc lá từ Văn nghệ Quân đội gửi vào, trong số sách báo có Vùng trời của nhà văn Hữu Mai. Ở chiến trường hàng chục năm làm gì có sách để đọc, vì vậy chúng tôi chuyền tay nhau đọc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta ở cả hai miền thật đặc biệt, thật tuyệt vời. Còn nhớ lúc Mỹ mới bắt đầu đổ quân vào miền Nam, mới leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, trên thế giới những người, những nước thuộc phe Mỹ thì ngồi chờ đợi ngày chúng ta sụp đổ, rất nhiều người, nhiều nước bạn bè của chúng ta thì lo lắng không biết chúng ta có địch nổi sức mạnh quân sự khổng lồ của Mỹ không? Bằng ý chí, bằng trí tuệ và bản lĩnh, bằng truyền thống lịch sử, chúng ta đã lần lượt đưa ra câu trả lời và Hiệp định Pa-ri 1973 là một thực tế hùng hồn. Đọc Vùng trời của nhà văn Hữu Mai chúng tôi hiểu thêm một mặt trận chiến đấu, yêu mến thêm các chiến sĩ không quân non trẻ và anh hùng của quân đội ta.
Nhà văn Hữu Mai thuộc thế hệ đầu tiên sáng lập tạp chí Văn nghệ Quân đội (1957) và cũng thuộc lớp nhà văn đầu tiên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Anh là một trong số ít nhà văn đầu tiên viết tiểu thuyết về cuộc kháng chiến chống Pháp (tiểu thuyết Cao điểm cuối cùng viết về Điện Biên Phủ). Năm 1960, tôi về tạp chí Văn nghệ Quân đội, cùng ở tổ văn xuôi với anh, trong những lần ngồi bên cốc cà phê anh thường tâm sự: “Trúc Hà ở đơn vị về đó là một thuận lợi lớn. Cậu có thực tế, có vốn sống. Nghề văn là một nghề đặc biệt, không có vốn sống, không viết được, muốn viết dài vốn sống cần phải nhiều, óc tưởng tượng có giỏi đến mấy cũng không thay thế được vốn sống, vốn sống là điều kiện tiên quyết rồi mới đến lao động sáng tạo”. Ngày tôi chuẩn bị đi B, anh mời tôi về nhà anh ăn bữa cơm chia tay, anh tâm sự: “Trúc Hà còn trẻ, có thêm năng khiếu quân sự, hãy cố gắng tích luỹ vốn sống để sau này viết dài về chiến tranh. Mỗi thế hệ nhà văn có một nhiệm vụ của thế hệ đó, thế hệ chúng ta là viết về chiến tranh”.
Trong số các nhà văn quân đội, nhà văn Hữu Mai thuộc trường hợp đặc biệt. Anh có điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu, làm việc với cấp chiến lược từ sự kiện đến con người cụ thể. Trong nhiều năm tháng anh làm việc với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và viết nhiều bộ hồi ký của Đại tướng là một thực tế sinh động. Người đọc thấy anh đã tài tình tái hiện, khắc hoạ và chuyển tải được một phần lịch sử thông qua nhân vật chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì vậy anh có một khối tư liệu đồ sộ về chiến tranh, đặc biệt ở cấp chiến lược. Sau khi anh hoàn thành viết hồi ký cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp về cuộc kháng chiến chống Pháp, có lần gặp anh, tôi đề nghị anh viết tiểu thuyết sử thi trên cơ sở tài liệu và vốn sống anh có, anh nói anh đã bắt tay vào soạn đề cương và chuẩn bị viết. Năm 2003, Bộ Quốc phòng chủ trương vận động viết tiểu thuyết sử thi về hai cuộc kháng chiến, anh đăng ký tham gia viết về trận Điện Biên Phủ. Anh đã kịp hoàn thành bản thảo trước lúc sức khỏe sa sút.
Nhà văn Hữu Mai là một điển hình, một tấm gương về lao động kiên trì, không mệt mỏi. Anh viết tiểu thuyết như Cao điểm cuối cùng, Vùng trời, Dải đất hẹp, Đêm yên tĩnh, viết nhiều bộ hồi tưởng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ông cố vấn của Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ. Dường như tuổi càng cao anh làm việc càng say mê, anh như chạy đua cùng thời gian. Dường như anh cảm nhận được tuổi tác và sức khỏe luôn đối nghịch với những sự sáng tạo của bản thân nên anh không xa rời chiếc máy tính.
Ngày đưa tang nhà văn Xuân Thiều, gặp anh ở sân nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, tôi thấy anh đã có biểu hiện khác về sức khỏe. Anh vốn là người nhanh nhẹn cả về cử chỉ và nói năng, nhưng lần gặp ấy đã thấy sự chậm chạp, vẻ mặt phảng phất nỗi buồn. Có thể buồn vì phải tiễn đưa một đồng chí, đồng nghiệp thân thiết và cả buồn vì sức khỏe của bản thân anh. Vài tuần sau, khi được tin anh đang cấp cứu ở Bệnh viện Hữu Nghị, tôi vào thăm, bác sĩ bảo anh đã hôn mê. Chị Thu - vợ anh ghé vào tai anh báo tin tôi vào thăm, nhưng anh vẫn yên lặng và thở mạnh tiếng hơi.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nhà văn Hữu Mai luôn đau đáu về đề tài chiến tranh cách mạng. Nhân vật của anh là từ người lính đến vị tổng tư lệnh. Loại hình thể hiện là truyện ngắn, tiểu thuyết sử thi đến hồi ký. Chị Thu nói với tôi, anh đã hoàn thành phần đánh Pháp, còn phần đánh Mỹ thì chưa. Vậy là từ nay bạn đọc, đồng chí và đồng nghiệp không được đọc sáng tác của anh nữa. Anh ra đi mang theo bao nhiêu tư liệu, vốn sống, suy ngẫm về số phận con người, số phận dân tộc, về cuộc chiến tranh thần thánh mà anh vừa là nhân chứng, vừa là người thư ký trung thực của lịch sử. Vĩnh biệt anh, nhà văn Hữu Mai, bạn đọc và đồng nghiệp vẫn mãi nhớ anh.
Hà Nội, 18-6-2007
Nam Hà