Trong “Tự truyện của tôi”, Nguyễn Sơn viết: “Mùa thu năm 1925, được sự bồi dưỡng của nhà yêu nước lão thành Hồ Chí Minh, tôi bắt đầu tiếp thu những hiểu biết về khoa học xã hội, lịch sử phát triển của xã hội, A.B.C về chủ nghĩa cộng sản, nhất là được Hồ Chí Minh tổng kết lịch sử phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam, phê phán con đường đi của một số người đã có ảnh hưởng đến tôi rất lớn. Và tôi tin tưởng ở con đường cơ bản là phải tuyên truyền, tổ chức quần chúng để khởi nghĩa vũ trang và trên một mức độ nào đó dựa vào sự viện trợ của cách mạng quốc tế”.
May mắn lớn nhất của Vũ Nguyên Bác là khi bước lên con đường đấu tranh cách mạng đã gặp được một người Thầy anh minh chỉ cho anh chân lý, mục tiêu và cách đi tới mục tiêu, chân lý đó. Và, suốt cuộc đời trước cái hạn không vượt qua được hàng rào 49 tuổi-Vũ Nguyên Bác-Nguyễn Sơn vẫn mãi mãi xứng đáng, không bao giờ phụ lòng của Người Thầy khai tâm cách mạng cho mình.
Sách “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (1924-1927)(1) “xếp” Nguyễn Sơn (Vũ Nguyên Bác, Hồng Thủy) vào danh sách 42 học viên lớp chính trị Quảng Châu khóa 3, khai mạc vào cuối 1926, bế mạc tháng 2-1927. Khóa này, có các học viên Phạm Văn Đồng, Lê Mạnh Trinh, Nguyễn Sĩ Sách, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Phùng Chí Kiên… cùng dự lớp với Nguyễn Sơn.
 |
Ảnh tư liệu |
Trong thời gian ở Quảng Châu, Vũ Nguyên Bác được “gia nhập” gia đình chiến sĩ cách mạng mang họ Lý-Lý Ninh-Lê-nin theo phiên âm Trung Quốc và Lý Thụy-Nguyễn Ái Quốc, cùng với các bạn Lý Phương Đức, Lý Phương Thuận, Lý Tống (Phạm Văn Đồng), Lý Quý (Trần Phú), Lý Tự Trọng… Từ đấy-Vũ Nguyên Bác có tên mới là Lý Anh Tự - cũng là tên dùng sau lớp chính trị. Vũ Nguyên Bác được Lý Thụy cử vào học trường quân sự Hoàng Phố. Là học viên xuất sắc của Trường Hoàng Phố, được tiếp nhận những lý luận quân sự, chiến tranh mới do các giáo viên người Nga cung cấp, tri thức, tầm nhìn của Nguyễn Sơn được mở rộng, toàn diện.
Cuối năm 1927, sĩ quan cận vệ của Tôn Trung Sơn, sau này còn là em rể (vợ Tưởng Giới Thạch là em Tống Khánh Linh-Tống Khánh Linh là phu nhân Tôn Trung Sơn) gây ra vụ thảm sát-thực chất là đảo chính cách mạng ở Thượng Hải, đàn áp đảng viên cộng sản, trục xuất người Nga, núp danh nghĩa Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, nhưng thực chất là phản bội lại Tôn Trung Sơn. Trước tình hình đó, Lý Anh Tự, với tiếng Trung đã thông thạo, nói, viết đều giỏi, được Trần Nhất Dân, cán bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc giới thiệu, đồng ý gia nhập Đảng Cộng sản này. Về sự kiện này, Nguyễn Sơn bộc bạch: “Việc vào Đảng lúc bấy giờ hoàn toàn bị chi phối bởi không khí bạo động; tình hình khẩn trương lúc đó làm cho tôi không thể nghĩ tới việc gì khác nữa. Lời thề của tôi lúc đó là “Sống vì Đảng, chết vì Đảng”. Trước sự khủng bố trắng của Tưởng Giới Thạch không cho phép tôi suy nghĩ gì hơn, ngoài việc liều chết với chúng. Lòng căm thù đó đã thúc đẩy tôi chiến đấu”.
Vũ Nguyên Bác tuân theo lời dạy của người Thầy-Nguyễn Ái Quốc-đã coi cách mạng, quần chúng cách mạng của bạn cũng như cách mạng của dân tộc, cũng như chính quần chúng cách mạng, đồng bào của mình, như lời dạy của Nguyễn Ái Quốc Bốn phương vô sản đều là anh em. Điều này khiến cho ta dễ hiểu, vì sao các nhà nghiên cứu, các bạn nước ngoài đánh giá rất cao “tinh thần quốc tế vô sản” của Hồng Thủy-Nguyễn Sơn-Vũ Nguyên Bác. Nhà văn Lý Linh đã viết bài ca ngợi “Tướng quân Hồng Thủy” dày 20 trang đánh máy tiếng Trung, thay mặt nhân dân Trung Quốc nhận xét Tướng quân Hồng Thủy (là) người chiến sĩ quốc tế kiệt xuất(2).
Là hội viên Hội Thanh niên-tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1926, rồi đảng viên ĐCS Trung Quốc, kể từ khi trên đôi vai gánh nặng hai cuộc đấu tranh, Vũ Nguyên Bác đã không ngày nào, tháng nào, năm nào, trong những giây phút cận kề cái chết, trong những tủi cực, hạnh phúc vẫn không bao giờ vắng đi chất “cách mạng Nguyễn Ái Quốc”, “tinh thần quốc tế kiệt xuất”.
Tháng 12 năm 1927, tham gia khởi nghĩa ở Quảng Châu bị lộ, Lý Anh Tự được chuyển tới khu du kích Đông Giang (phía tây Quảng Châu) nhận nhiệm vụ làm chính trị viên đại đội Trung đoàn 74, Hồng quân Trung Hoa, đã chỉ huy đơn vị đánh quân Tưởng ở Nga Phu, Xích Thanh, Hoàng Xa. Trong những lần “mặt giáp mặt với kẻ thù”, Lý Anh Tự đã tự đổi tên mình là Hồng Thủy-dòng “nước đỏ hồng, màu cách mạng, chỉ có tiến lên, trôi đi ra biển Đông mà không dừng lại”.
Hai năm sau, năm 1931, Hồng Thủy đã được bổ nhiệm giữ chức vụ Chính ủy trung đoàn 102, rồi cùng năm làm Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 34, Quân đoàn 12 Hồng quân. Cán bộ đảng viên, chiến sĩ của Sư đoàn 34, nghe tiếng Hồng Thủy đã sớm dạn dày kinh nghiệm chiến đấu, già dặn trong vóc người gầy bé, không ai tin rằng chủ nhiệm của họ vừa đầy 23 tuổi! Vốn thích văn thơ dân gian, thuộc Kiều của Nguyễn Du, hâm mộ các thi sĩ Trung Quốc đời nhà Đường, sau thời gian làm Trưởng phòng Tuyên truyền văn hóa-câu lạc bộ nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê-nin của Trường Quân chính Trung ương Hồng quân, Hồng Thủy được lệnh thành lập “Cùng nông Kịch đoàn”, bản thân sắm vai chính trong vở kịch cách mạng “Ngọn lửa Thượng Hải” có thông tin cho rằng chính Hồng Thủy là tác giả kịch bản. Đêm trình diễn vở kịch này tại khu căn cứ Thụy Kim trước nhân dân địa phương, cán bộ, chiến sĩ Hồng Quân, có mặt cả Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Chu Đức… cũng không ai nghĩ rằng Hồng Thủy đa tài đến thế. Khả năng về hoạt động văn hóa, cái “duyên” với kịch, tuồng… này còn theo Nguyễn Sơn về với Liên khu 4 Việt Nam, khiến cho vị tướng “văn võ song toàn”, đa tài này cũng có lúc “đa nợ”, “chữ tài liền với chữ tai một vần”…
Năm 1934, cùng với Tốc Sỹ Đệ, người Cao Ly (Triều Tiên) là hai người nước ngoài duy nhất được bầu làm Ủy viên Trung ương tại Đại hội Đại biểu toàn quốc nước Cộng hòa xô-viết Trung Hoa. Niềm vui chưa được bao lâu, cũng năm Giáp Tuất-1934 ấy, vì để mất 20 đồng ngân phiếu công nông-một loại tiền lưu hành trong khu căn cứ-cũng có thể bị nghi oan là tham ô-Chủ nhiệm chính trị cấp sư đoàn Hồng Thủy bị khai trừ ra khỏi Đảng, thuyên chuyển về Trường Đảng làm giáo viên dưới quyền hiệu trưởng Đổng Tất Vũ.
Nghe tiếng Hồng Thủy đã lâu, Hiệu trưởng “rất ngạc nhiên” trước cái “án” oan nghiệt, nặng nề này của Hồng Thủy. Tuy nhiên, ông lại thấy Hồng Thủy vẫn lạc quan, tin tưởng và cho rằng đây là dịp để rèn luyện, để rút kinh nghiệm… Cuối năm ấy, Hồng Thủy được phục hồi đảng tịch, nhận nhiệm vụ tại Trung đoàn cán bộ do Trần Canh chỉ huy, khởi đầu cuộc vạn lý trường chinh cùng 30 vạn Hồng quân Trung Hoa rời khu Xô-viết Giang Tây, lên Tây Bắc. Trên con đường hành quân cực kỳ gian khổ, vượt đầm lầy, núi tuyết chưa có chân người qua, lao mình trên cầu sắt Đại Độ Lô Định, vừa chạy vừa đánh, vừa đổi hướng hành tiến đánh lạc đối phương, đói, rét quá sức chịu đựng của thân xác con người, đi 30 vạn, đến nơi còn 3 vạn. Và Hồng Thủy lần nữa là người chiến thắng, tồn tại trong số 30/300 ngàn anh hùng “Trường Chinh” ấy.
Đói khát, rét lạnh, bệnh tật… trên 25 ngàn dặm Trường Chinh đã không lay chuyển được ý chí sắt thép, thân sắt, mình đồng của Hồng Thủy. Và một cuộc “tập kích tinh thần” vu cáo Hồng Thủy là gián điệp quốc tế, âm mưu ám sát Hồng Thủy vào năm 1935, trên con đường gian khổ tột cùng, bị khai trừ Đảng lần thứ 2 trong gần 2 năm. Điều này cũng không làm nao núng được quyết tâm sắt đá vì cách mạng của người con yêu của đất Kiêu Kỵ - nơi quê hương ông người ta lấy búa, để vàng trên đe mà đập, trăm lần, ngàn lần để có một “quỳ” vuông vức (như câu chữ “Hạnh dục phương” cái nết phải ngay thẳng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Thiếu tướng Nguyễn Sơn năm 1948)… Đầu năm 1936, trái, phải, ân, oán, thiện, ác đã rõ ràng khi 3 vạn anh hùng Trường Chinh về đến Diên An chẳng tìm ra được “tang chứng, vật chứng” gì mà Trương Quốc Đào gán cho-thực chất là do Hồng Thủy phản đối Trương Quốc Đào ủng hộ chủ trương của Chu Đức, Lưu Bá Thừa, nên tư lệnh tả quân họ Trương bẽ mặt, hèn hạ trả thù mà thôi. Trương Quốc Đào, sau này lại chính thức phản bội, phá hoại Đảng, làm gián điệp cho Tưởng!
Sau này, Nguyễn Sơn viết: “Trong quá trình Trường Chinh tôi được thử thách một vấn đề: Chí hướng vững chắc từ đầu chí cuối, không hề có ý dao động, đó là điều chủ yếu nhất”, “không dao động” cả về vật chất, về tinh thần, ý chí, bản lĩnh. Xem ra, như vậy ông đã “huyền thoại” từ bấy giờ rồi!
Đứng chân trên khu Xô-viết Trung ương, Hồng Thủy đã qua các công tác ở Cục Chính trị Bát lộ quân với các thủ trưởng Nhiệm Bật Thôi, Đặng Tiểu Bình, rồi làm báo “Kháng địch” của quân đoàn Tấn Sát Ký.
Sự đời ít khi có quá tam ba bận. Nhưng số phận cay đắng của Hồng Thủy lại phải chịu đủ 3 bận quá tam… Năm 1938, năm lập gia đình với cô hội trưởng phụ nữ huyện Ngũ Đài, Hồng Thủy bị Diêm Tích Sơn lãnh chúa ở Sơn Tây tham gia Mặt trận thống nhất Trung Quốc vu cáo, lại bị đảng bộ Ngũ Đài Sơn khai trừ Đảng. Đến cuối năm ấy, Hồng Thủy mới được khôi phục đảng tịch.
Năm 1945, để lại Trung Quốc người vợ và 2 con trai, ông nóng lòng về Việt Nam gặp Nguyễn Ái Quốc-Lý Thụy năm xưa. Tại quê mẹ Tổ quốc, ông đã được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam, Tham mưu trưởng Bộ Quốc phòng, Liên khu trưởng khu 4… Ông đã “trấn ải” Thanh-Nghệ-Tĩnh làm khu tự do cho Trung Bộ, hậu phương cho Bình-Trị-Thiên và cả nước khiến quân Pháp không dám “bén mảng” đến vùng này. Ông cũng đã viết nhiều sách, dịch nhiều tài liệu quân sự nước ngoài về chiến tranh, huấn luyện và đã thực hiện trong lực lượng vũ trang khu 4. Nguyễn Sơn còn là vị “Mạnh Thường Quân” của các văn nghệ sĩ là ông “Tướng văn hóa” của Liên khu 4.
Mất tin tức với gia đình ở Trung Quốc, cuối năm 1948 Nguyễn Sơn lập gia đình mới ở Việt Nam...
Sách viết về danh nhân Nguyễn Sơn có nhiều trang đề cập tới việc Nguyễn Sơn chưa “vui” khi được phong cấp Thiếu tướng trong quân đội Việt Nam và bức thiếp thư 4 câu 12 chữ của Bác Hồ gửi “người em là Nguyễn Sơn” khuyên bảo nhẹ nhàng khiến vị tướng đánh đủ trăm trận này phải “tâm phục, khẩu phục” nhận cấp thụ phong.
Do sức khỏe, sớm có dấu hiệu bệnh hiểm nghèo, năm 1950 Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc công tác tại Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng. Vào những năm ấy, tất cả các cố vấn Trung Quốc được cử sang giúp Việt Nam đều được Nguyễn Sơn giới thiệu tình hình, trao đổi kinh nghiệm. “Trước khi thi hành nhiệm vụ, các cố vấn Trung Quốc phải tham dự một khóa hướng dẫn ở Bắc Kinh về địa hình, địa vật và tình hình chiến sự ở Việt Nam do Hồng Thủy, Võ Nguyên Bắc-một sĩ quan cấp tướng trong quân đội Trung Quốc phụ trách (3).
Tháng 9 năm 1955, Chính phủ Trung Quốc trao quân hàm “Thiếu tướng cho Hồng Thủy, Xã trưởng kiêm Tổng biên tập tạp chí Huấn luyện chiến đấu”. Cấp là Thiếu tướng sư đoàn nhưng sau đó Mao Trạch Đông đã chỉ thị bổ sung “Thiếu tướng cấp quân đoàn”.
Đầu năm 1956, biết rõ bệnh tình của mình, Nguyễn Sơn xin về nước. Ngày 27 tháng 9 năm ấy, Nguyễn Sơn được Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Bành Đức Hoài tiếp đón, lưu luyến tiễn chân, bố trí xe hỏa riêng, có bác sĩ đi kèm. Nguyễn Sơn đã về tới Hà Nội ngày 30 cùng tháng. Ngay hôm ấy Bác Hồ nhắc “Ngày mai Bác muốn gặp chú Sơn”.
Ngày 9 tháng 10 năm 1956, Nguyễn Sơn vào Bệnh viện Việt-Xô. 15 giờ 30 phút ngày 21 tháng 10, người con yêu quý của Kiêu Kỵ, của Việt Nam, người học trò kiên trung, bất khuất của Hồ Chí Minh, người đồng chí quốc tế kiệt xuất của nhân dân Trung Quốc đã ra đi. Tin đau thương truyền lan ra cả nước, ở miền Bắc và ở miền Nam-nơi ông còn cô con gái không tập kết được ra Bắc-nơi ông đã từng là Chủ tịch Ủy ban Nam Bộ. Và ở Trung Quốc, Tổ quốc thứ hai của ông, nơi ấy ông có các bạn bè là những chiến sĩ cùng Trường Chinh, cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, nơi còn có ba mẹ con Trần Kiếm Qua, người vợ và hai con trai của ông…
Và ở Thanh Hóa, nơi ông đã “đóng” Liên khu bộ Liên khu 4, một nhà thơ, một chiến sĩ của ông-Hữu Loan-đã bất ngờ, bật khóc và viết trong nước mắt “Vị tướng và nhà thơ”:
“… Một đám tang đã diễu hành
Một đám tang
Cờ đỏ liệm quan tài
Nấc lên màu huyết
Một đám tang đi
Không
bao
giờ
tới huyệt…”.
NGUYỄN VĂN KHOAN
1. Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB CTQG, 4,1998, tr204.
2. Nguyễn Thanh Hà, Nguyễn Văn Khoan, Hồng Hạnh “Nguyễn Sơn, lưỡng quốc Tướng quân”, NXB Thông Tấn, 2006, tr327.
3. Lê Xuân Khôi (quốc tịch Mỹ, gốc Việt), “Việt Nam 1945-1995”, NXB Tiên Rồng, Hoa Kỳ, 2004, trang 216 (bản tiếng Việt): “Trong sách viết tiếng Anh, không có dấu nên không biết đích xác tên vị tướng họ Võ này như thế nào. Võ Nguyên Bắc chắc không phải là bà con của Võ Nguyên Giáp (!) vì không thấy phía Việt Nam nhắc đến nhân vật này (Võ Nguyên Bắc) bao giờ”(!).