 |
Một số sản phẩm của làng chạm bạc Đồng Xâm |
Chúng tôi đến Đồng Xâm đầu tháng 4, khi bắt đầu ngày nắng nóng đầu tiên. Dưới mái ngói của hợp tác xã liên tục vang lên tiếng đục, chạm của những người thợ bạc. Nghề chạm bạc Đồng Xâm được xếp vào một trong số những làng nghề truyền thống lâu đời nhất ở Việt Nam. Bắt kịp với sự đổi mới của đất nước, nơi đây đã có những bước phát triển đáng mừng. Tuy nhiên vẫn còn đó nhiều khó khăn…
Đồng Xâm-một làng nghề độc đáo ,tinh xảo lâu đời
Theo sử sách truyền lại, nghề chạm bạc Đồng Xâm ra đời từ cách đây hơn 400 năm. Nghề được lưu truyền và tồn tại , phát triển từ cụ tổ nghề Nguyễn Kim Lâu. Hàng năm, cứ đến ngày mùng 1 tháng tư âm lịch, những người thợ bạc Đồng Xâm đang hành nghề trên mọi miền đất nước hoặc đang sản xuất tại quê nhà lại cùng nhau hướng về ngôi đền thờ cụ Tổ nghề đặt tại trung tâm làng chạm bạc Đồng Xâm. Đây là ngày hội dâng hương tri ân cụ Tổ nghề, người đã dạy cho người xưa và truyền lại cho con cháu đất này một nghề quý giá.
Ai cũng biết chạm bạc đòi hỏi sự tinh xảo và tính nghệ thuật cao. Mẫu trang trí hàng bạc Đồng Xâm là những mô típ phổ biến và đặc sắc nhất dưới các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong bốn khâu cơ bản của kỹ thuật kim hoàn: trơn, đấu, đậu, chạm thì ưu thế của thợ bạc Đồng Xâm nằm ở kỹ thuật chạm trổ tài tình, tinh tế nhằm khai thác đặc tính của chất bạc có độ phản quan lớn, đã sử dụng thủ pháp sáng tối trên một vật thể chiếu không gian ba chiều để chạm các đề tài thẩm mỹ. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Hà, tác giả “Sưu tầm ghi chép lịch sử nghề truyền thống” thì đây là đóng góp có giá trị tuyệt đối của thợ bạc Đồng Xâm cho nghệ thuật chạm khắc Việt Nam.
Hiện thợ bạc Đồng Xâm đã chọn lối đi riêng chuyên chú trọng vào các mặt hàng đồng, bạc, vàng, có thể làm ra nhiều sản phẩm khác nhau nhưng chủ yếu là ba loại: đồ trang sức, đồ thờ cúng và đồ mỹ nghệ.
Bước đổi mới phát triển của làng nghề
Hơn 400 năm tồn tại, làng nghề chạm bạc Đồng Xâm đã trải qua nhiều thăng trầm, có thời kỳ được mời lên kinh đô làm đồ dùng cho vua chúa và các mặt hàng cống phẩm, lại có giai đoạn bị đình đốn, nhiều người phải bỏ nghề hoặc rời quê hương đi nơi khác làm ăn. Ngày nay, nhờ chủ trương khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta, những người thợ bạc Đồng Xâm đã có điều kiện tổ chức sản xuất, phát triển nghề, sống cuộc sống ấm no hạnh phúc. “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” , nhiều người thợ bạc Đồng Xâm đã làm giàu được với nghề cha ông truyền lại. Tiêu biểu là ông Phạm Phương – Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Phạm Phương đang rất ăn nên làm ra tại thành phố Hồ Chí Minh. Những người con của Đồng Xâm ở mọi miền Tổ quốc hàng năm đóng góp gửi về xây dựng quê hương hàng trăm triệu đồng. Những người thợ ở lại mảnh đất cha ông cũng có thể yên tâm với nghề. Thu nhập của họ tùy theo trình độ dao động từ 450 – 600.000 đồng/ tháng. Lương một thợ tay nghề cao có thể lên tới 1,1 – 1,2 triệu đồng/tháng. Đây là mức thu nhập ổn định và khá cao ở một tỉnh thuần nông như Thái Bình, đồng thời giúp giải quyết nguồn lao động tại chỗ vốn khá đông. Tới 70% người dân Đồng Xâm làm nghề chạm bạc theo hai hình thức: tập trung trong hợp tác xã, công ty, tổ hợp và riêng lẻ trong từng hộ gia đình.
Năm 1994, làng chạm bạc Đồng Xâm được tỉnh công nhận là thị tứ Đồng Xâm và được xếp vào điểm du lịch của tỉnh. Nhà nước cũng đã quan tâm đầu tư xây dựng đường vào làng nghề và trạm cấp nước phục vụ cho sản xuất. Các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước: Đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười, đồng chí Bí thư Lê Khả Phiêu, đồng chí Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí lãnh đạo các bộ ngành đã về tham quan, động viên bà con xã viên sản xuất nghề chạm bạc. Người thợ bạc Đồng Xâm nhớ mãi lời căn dặn của Tổng bí thư Đỗ Mười: Các bác thợ bạc phải thực hiện phương châm là “li nông không li hương”.
Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm nằm trên địa phận ba xã: Hồng Thái, Lê Lợi, Trà Giang thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Hiện nay có 150 tổ hộ sản xuất, thu hút 6.160 lao động tại chỗ. Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp này chiếm 52% cơ cấu sản xuất của địa phương. Doanh thu 2006 từ nghề chạm bạc là 25,2 tỉ. Số lao động Đồng Xâm đi làm ở khắp các miền Tổ quốc lên tới 1.030 người. Sản phẩm của làng nghề được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới: Lào, Campuchia, Thái Lan, Hồng Công, Bỉ, Ý… |
Mỗi năm, Đồng Xâm đón hàng trăm lượt khách quốc tế. Riêng năm 2006, Hiệp hội Ý – Đức đã về Đồng Xâm tìm hiểu, nghiên cứu làng nghề chạm bạc cổ truyền trên quy mô lớn. Hiện Đồng Xâm đang thực hiện dự án “Hợp tác phát triển kinh tế giữa phòng thương mại Việt – Ý với làng nghề chạm bạc Đồng Xâm”, xúc tiến việc thiết kế logo, xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Không chỉ biết sản xuất đơn thuần những người thợ bạc hôm nay còn chú trọng đến khâu giới thiệu, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm tại các hội chợ, các quầy dịch vụ lớn ở cửa khẩu Hòn Gai, sân bay Nội Bài, phòng tiểu thủ công nghiệp – Thương mại Việt Nam, qua các phương tiện truyền thông đại chúng và qua một tuần lễ hội Đồng Xâm. Hoạt động quảng bá sản phẩm đã đem về cho làng chạm bạc Đồng Xâm nhiều hợp đồng lớn từ 30 – 40.000 USD của các đối tác nước ngoài.
Còn đó những khó khăn
Khi kể với chúng tôi về bước tiến, thành tựu của làng nghề, ông Tạ Xuân Định, chủ nhiệm “Hợp tác xã chạm bạc Phú Lợi” vẫn không giấu được những đăm chiêu suy nghĩ. Theo ông, làng nghề hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn. Trước hết là về mặt nguyên liệu: nguồn vàng, bạc, đồng thu mua trôi nổi trên thị trường, không ổn định, xăng ga tăng cao ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm. Nhiều khi do hợp đồng đã ký, hợp tác xã phải chấp nhận hòa vốn, thậm chí là lỗ. Khó khăn tiếp theo là vấn đề bảo về thương hiệu của sản phẩm. Nhiều thợ bạc nơi khác cũng trưng biển “Đồng Xâm” đánh lừa người tiêu dùng làm ảnh hưởng đến uy tín làng nghề, trong khi đó xin cấp bản quyền lại gặp rất nhiều khó khăn. Việc dạy nghề, truyền nghề lấy nòng cốt gia đình, cha truyền con nối là chủ yếu, chưa có điều kiện hình thành các lớp dạy tập trung cho thợ trẻ nên trình độ không đồng đều, những kỹ xảo tinh hoa độc đáo, bí truyền dễ bị mai một. Đây lại là mặt hàng lưu niệm, không phải là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, tiếp cận thị trường khó khăn, nên đơn đặt hàng không đều, dẫn đến việc không chủ động trong sản xuất. Vốn mỏng, chủ yếu là huy động các xã viên, ít được các ưu đãi vay vốn do sản xuất manh mún. Tình trạng manh mún, nhỏ lẻ này cũng dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ, hội sản xuất với nhau. Để khắc phục, theo ông Nguyễn Thế Hoan – Bí thư Đảng bộ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Đồng Thái, thì Đồng Xâm đang có ý định thành lập “Hiệp hội những người thợ bạc” để mọi người đều nói như một người, nhưng điều này là rất khó. Cũng theo ông Hoan, khó khăn lớn nhất là người thợ chạm bạc Đồng Xâm gặp phải là vấn đề bảo vệ sức khỏe. Họ thường xuyên phải tiếp xúc với xăng, ga, hóa chất, không có thiết bị chống bụi, chống bám. Các bệnh phổi, ung thư ngày càng gia tăng. Nơi đây cũng đang rất cần một giải pháp bảo vệ môi trường.
Ngọc Trâm-Thu Dung