Tôi may mắn được gặp cụ Hoàng Minh Chí, đảng viên 70 tuổi Đảng trong căn nhà nhỏ thuộc tổ 25 thị trấn Chùa Hang, Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Đã ở tuổi 90, nhưng cụ Chí vẫn còn khá nhanh nhẹn và minh mẫn. Cụ đã từng là đội viên trong đội Cứu quốc quân II và đã từng một thời trực tiếp tham gia các trận đánh khiến quân giặc phải bao phen khiếp sợ, góp phần vào thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cụ Hoàng Minh Chí.

Sinh ra và lớn lên tại thôn La Hóa, xã Lâu Thượng (Võ Nhai, Thái Nguyên), năm 1934, khi vừa tròn 17 tuổi, được giác ngộ, người thanh niên Hoàng Minh Chí bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương. Năm 1935, anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Những năm này, phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc huyện Võ Nhai phát triển mạnh mẽ. Cùng với các đồng chí của mình, Hoàng Minh Chí được Trung ương Đảng giao nhiệm vụ tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân xây dựng phong trào cách mạng tại các xã Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá và mở rộng căn cứ địa cách mạng.

Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9-1940) bị thực dân Pháp khủng bố và dìm trong bể máu, để giữ vững và bảo toàn lực lượng, Cứu quốc quân I đã quyết định rút phần lớn lực lượng lên biên giới Việt-Trung. Ngày 12-8-1941, một số thành viên còn lại của Cứu quốc quân I trên đường từ Bắc Sơn lên biên giới Việt-Trung đã rơi vào ổ phục kích của địch, một số đồng chí của ta đã hy sinh, số còn lại rút lên biên giới. Lúc này, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Việt Minh tỉnh Cao Bằng đã ảnh hưởng rất lớn đến phong trào cách mạng ở Thái Nguyên. Do yêu cầu của cách mạng cần phải thành lập LLVT tại Thái Nguyên, Cứu quốc quân II ra đời và Hoàng Minh Chí được vinh dự là một trong những người đội viên đầu tiên của đội. Cụ bồi hồi kể lại: “... Tôi còn nhớ lắm cái ngày hôm ấy, chính là ngày 15-9-1941, tại cánh rừng Khuôn Mánh (Tràng Xá-Võ Nhai), tôi cùng hơn 30 đồng chí khác trong Cứu quốc quân II đã tuyên thệ dưới lá cờ Tổ quốc. Lúc đó, chúng tôi ai cũng cảm thấy phấn chấn, tự hào và càng thêm quyết tâm đánh đuổi giặc thù...”.

Buổi lễ thành lập Cứu quốc quân II do đồng chí Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) chủ trì, thay mặt cho Ban Thường vụ Trung ương Đảng giao nhiệm vụ cho đội. Hoàng Minh Chí nhận nhiệm vụ chỉ huy LLVT cách mạng và nhân dân huyện Võ Nhai tổ chức các trận đánh, phá tan các cuộc khủng bố của địch. Ngày 16-11-1944, ông cùng với bộ đội võ trang của ta mai phục tại gốc cây đa Na Hóa, xã Lâu Thượng, khi quân địch đến trận địa đã bị ta nổ súng tiêu diệt hơn chục tên và làm nhiều tên khác bị thương. Đêm ngày 20, rạng sáng ngày 21-3-1945, đội Cứu quốc quân II do Hoàng Minh Chí và các đồng chí Thái Long, Cương chỉ huy tiến quân về La Hiên hợp lực với lực lượng tự vệ xã bao vây châu lỵ Võ Nhai. Suốt từ 2 giờ đến 4 giờ sáng, bằng mọi lý lẽ kêu gọi chúng nộp vũ khí đầu hàng nhưng chúng không chịu. Đến 5 giờ sáng ngày 21-3, ta đồng loạt nổ súng, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện và nộp hết toàn bộ đạn dược cho quân cách mạng.

Đang tâm sự với chúng tôi, đôi mắt cụ bỗng sáng lên và trên khuôn mặt như đang bừng tỉnh không khí sôi sục của một mùa thu Tháng tám 61 năm về trước, cụ kể tiếp: “Hôm ấy là ngày 15-8-1945, nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng từ Tân Trào chuyển đến, tôi và đồng chí Các Lượng đã khẩn cấp chia Cứu quốc quân II thành những bộ phận nhỏ đánh úp đồn Nhật ở La Hiên. Sau khi ta nổ súng, địch hoảng sợ bỏ chạy, ta đã bắt sống hàng chục tên địch, quân ta đã hoàn toàn làm chủ châu lỵ Võ Nhai. Võ Nhai được giải phóng, các phân đội giải phóng tiến quân về tỉnh lỵ Thái Nguyên, cùng với Giải phóng quân Tân Trào bao vây chặt từ bốn phía khiến cho quân Nhật và bọn lính khố xanh hoang mang hoảng sợ. Trước uy thế của quân ta buộc quân Nhật phải kéo cờ trắng đầu hàng. Sau khi giải phóng tỉnh lỵ Thái Nguyên, chúng tôi nhận được lệnh của đồng chí Võ Nguyên Giáp tiến về Thủ đô. Cùng với khí thế sục sôi cách mạng của cả nước, ngay trong ngày 18-8, chúng tôi tiến về Hà Nội với ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc thù...”. Ngày 19-8-1945, Hà Nội khởi nghĩa giành thắng lợi, chính quyền thuộc về tay nhân dân”.

Chia tay cụ Hoàng Minh Chí, trong lòng tôi dường như còn âm vang không khí sục sôi của một mùa thu cách mạng năm ấy.

Đào Lan Hương