Với việc đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn (20-11-1946), thực dân Pháp đã thực sự bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn đối với miền Bắc để “tái lập chủ quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam”, “dùng biện pháp quân sự giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp”. Đảng ta chỉ rõ: “Sự thật chứng tỏ rằng thực dân Pháp ngang nhiên gây hấn, chúng định dùng vũ lực bắt ta phải nhượng bộ. Tạm ước 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại đến quyền lợi nghiêm trọng của dân tộc...”.

Quyết tử quân thề “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

Trước tình hình cực kỳ căng thẳng, ngày 13-12-1946, Trung ương Quân ủy, Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy triệu tập hội nghị các khu trưởng tại Hà Đông. Đồng thời Ban thường vụ Trung ương điện cho Xứ uỷ Nam Bộ biết chủ trương gấp rút chuẩn bị kháng chiến toàn quốc, xác định nhiệm vụ của chiến trường Nam Bộ là “không để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung-Bắc” và làm tốt các công tác sau:

“Tìm mọi cách uy hiếp thành phố Sài Gòn, phá hoại các kho tàng quân nhu, đạn dược, thuyền bè chuyên chở của địch; kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị của quần chúng như bãi công, đình công, đòi quyền lợi kinh tế, đòi quyền tự do dân chủ, chống khủng bố, tẩy chay chính phủ bù nhìn; tổ chức các đội xung phong cảm tử, tiễu trừ Việt gian, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng ở nông thôn, thành thị, bao gồm cơ quan hành chính bí mật và công khai; đẩy mạnh công tác địch vận; đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, đặc biệt chú ý vận động đồng bào theo đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa...” (Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb QĐND, 1976, tập 2, tr. 69).

Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1946, các thành phố, địa phương đều đã nhận được lệnh di chuyển các kho tàng, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất vũ khí ra ngoại thành, về nông thôn, lên rừng núi, đề phòng chiến sự lan rộng. Từ sau đêm 19-12, tiến hành đợt “tổng di chuyển” triệt để, rộng lớn để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy di chuyển lên ATK Việt Bắc đều được “Đội công tác đặc biệt” do đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo, nghiên cứu, xác định từ trước. Vì vậy mà khi di chuyển vẫn nắm chắc tình hình, chỉ đạo kịp thời các mặt trận, các địa phương. Trong đợt “tổng di chuyển”, riêng ngành quân giới từ khu 5 trở ra đã chuyển lên căn cứ an toàn gần 4 vạn tấn máy móc, vật tư nguyên liệu, lập binh công xưởng chế tạo vũ khí.

Về chỉ đạo tác chiến trong thành phố, ngoài các mệnh lệnh, chỉ thị của Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy, ngày 7-12-1946, báo Sự thật số 66 đăng một bài luận văn quân sự quan trọng của Tổng bí thư Trường Chinh: “Kháng chiến trong thành phố”, hướng dẫn cách đánh du kích trong thành phố và hoạt động của các đội du kích nội thành. Về vị trí chiến lược của thành phố trong chiến tranh, tác giả viết: “Mỗi một thành phố cũng như mỗi làng của ta phải là một trung tâm điểm kháng chiến, kháng chiến dẻo dai, kháng chiến quyết liệt”.

Từ ngày 15-12-1946, tình hình nóng lên từng giờ. Sáng 16-12, Va-luy từ Sài Gòn ra Hải Phòng, triệu tập Moóc-li-e, Xanh-tơ-ni, Đe-bơ phổ biến kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực phía bắc vĩ tuyến 16. Chiều 18-12, Pháp gửi cho ta tối hậu thư đòi làm nhiệm vụ trị an ở Hà Nội và đe dọa “Đến sáng 20-12 những điều đó không được chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển hướng sang hành động”. Sáng 19-12, Pháp gửi tiếp cho ta một tối hậu thư, đòi tước vũ khí của tự vệ, đòi ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến...

Trưa ngày 19-12, Ban Thường vụ Trung ương điện cho các chiến khu và tỉnh ủy, thành ủy: “Giặc Pháp đã hạ tối hậu thư và đòi tước khí giới của quân đội, tự vệ, công an ta. Chính phủ đã bác bỏ tối hậu thư ấy. Như vậy, chỉ trong vòng 24 giờ là cùng, chắc chắn giặc Pháp sẽ nổ súng. Chỉ thị của Trung ương: “Tất cả hãy sẵn sàng”.

Chiều 19-12-1946, Bộ trưởng Quốc phòng-Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh chiến đấu. Cơ quan cơ yếu mật mã Bộ Tổng tham mưu truyền đi bản mật lệnh: “Chuyến hàng sẽ đến lúc 18 giờ ngày 21-12. Hàng mang mã hiệu A cộng hai, B trừ hai. Chú ý theo dõi đón hàng đúng giờ”. Theo đó, ta quy ước “chuyến hàng sẽ đến” có nghĩa là tổng giao chiến bắt đầu. A là giờ cộng thêm hai, B là ngày trừ đi hai. Có nghĩa là: “Cuộc tổng giao chiến bắt đầu lúc 20 giờ ngày 19 tháng 12”.

Ngoài ra để bảo đảm các nơi có thể kịp thời nhận lệnh, ta còn quy ước khi đài Tiếng nói Việt Nam phát câu: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Xin trân trọng mời đồng bào cả nước nghe lời Hồ Chủ tịch”. Đó là tín hiệu tổng giao chiến. Đúng 20 giờ ngày 19-12, đài Tiếng nói Việt Nam phát tín hiệu trên.

Tiếp đó, Bộ trưởng Quốc phòng-Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh chiến đấu:

“Tổ quốc lâm nguy!

Giờ chiến đấu đã đến!

Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Quốc phòng-Tổng chỉ huy, tôi hạ lệnh cho toàn thể bộ đội Vệ quốc quân và dân quân tự vệ Trung-Nam-Bắc phải nhất tề đứng dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước.

Hy sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng!

Tiêu diệt bọn thực dân Pháp!

Quyết chiến!”

Một thời kỳ lịch sử mới bắt đầu: Toàn quốc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp.

Đại tá Trần Tiệu