 |
Giáo sư Vũ Khiêu tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp 10 chữ: "Võ Công truyền quốc sử. Văn Đức quán nhân tâm". |
Vào ngày 19 tháng 9 năm nay, Giáo sư Vũ Khiêu thượng thọ 90 tuổi. Ông vốn người họ Đặng, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi nho học và khoa bảng ở xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Cách đây một tháng, tôi được dự cuộc hội thảo khoa học “Những yếu tố Phật giáo trong nghệ thuật dân tộc”, do Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, Hội giao lưu văn hóa Đức-Á và Tập đoàn văn hóa-du lịch ATI (Hoa Kỳ) phối hợp tổ chức tại Thác Đa (Ba Vì-Hà Tây). Hôm đó, Giáo sư (GS) Vũ Khiêu điều hành hội thảo. Suốt hai buổi sáng và chiều, vị GS 90 tuổi ngồi chăm chú nghe các bản tham luận và cả những tranh luận của các chuyên gia, học giả... trong và ngoài nước, rồi tóm lược, nhận xét, bổ sung, phát triển... Ý kiến của từng người để hội thảo tập trung chủ đề và thành công tốt đẹp. Trên đường trở về Hà Nội, được ngồi cạnh GS, tôi xin ông chỉ giáo về bí quyết giữ gìn sức khỏe, ông nói: “Ngoài chế độ ăn uống và vận động, với tôi quan trọng nhất là phải lao động rèn luyện trí óc thường xuyên. Lười suy nghĩ là cách già yếu nhanh nhất”!
Về tấm gương lao động “rèn luyện trí óc” thì GS Vũ Khiêu là một trong những học giả đương đại tiêu biểu. Lĩnh vực nghiên cứu của ông khá rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực: Ông đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên (1996) cho một số công trình nghiên cứu khoa học xã hội và được tuyên dương Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Từ điển văn học (NXB Thế giới, 2005) xếp ông “là một trong những nhà khoa học xã hội am tường về văn hóa Đông-Tây”. Ngoài vốn văn hóa được tiếp thu ở nhà trường, ông còn nỗ lực tự học và hoạt động thực tiễn. Đặc biệt, ông đã chuyên tâm nghiên cứu và có nhiều thành tựu về nghiên cứu triết học, mỹ học, văn hóa học, xã hội học và lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đến nay, ông đã có hơn 70 cuốn sách bàn về các lĩnh vực đó. Nhiều công trình của ông đã trở thành sách kinh điển, giáo khoa, như: Đẹp (1963), Cao Bá Quát (1970), Anh hùng và nghệ sĩ (1976), Cách mạng và nghệ thuật (1979), Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng của người trí thức Việt Nam (1980), Con người mới Việt Nam và sứ mệnh vinh quang của văn nghệ (1986), Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử (1987), Nho giáo xưa và nay (1990), Bàn về văn hiến Việt Nam (1997) v.v.. Đặc biệt tác phẩm Đẹp của ông công bố năm 1963, đến nay được giới học giả trong và ngoài nước thừa nhận là hệ thống các bài giảng mỹ học đầu tiên phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Bên cạnh công việc của một nhà nghiên cứu, GS Vũ Khiêu còn là một nhà hoạt động xã hội, một nhà quản lý, tổ chức, đã có công lao to lớn trong sự nghiệp văn hóa-giáo dục của nước nhà. Ông là một trí thức tham gia cách mạng từ thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám. Mùa thu năm 1945, ông phụ trách công tác tuyên truyền và dân vận của Việt Minh thành phố Nam Định. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ông từng giữ các chức vụ: Giám đốc Sở tuyên truyền văn nghệ Khu 10, rồi Khu 4 và Khu Việt Bắc; Ủy viên Ban tuyên huấn các mặt trận: Tây Bắc, Trung du và Điện Biên Phủ. Kháng chiến thành công, ông về làm Phó giám đốc kiêm Bí thư đảng ủy Việt Nam thông tấn xã (nay là TTX Việt Nam), rồi giảng viên Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Một thời gian dài trước khi nghỉ hưu, ông là Phó viện trưởng Viện triết học, rồi Phó chủ nhiệm Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (nay là Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia) kiêm Viện trưởng Viện xã hội học. Sau ngày nghỉ hưu, ông vẫn tham gia nhiều đề tài khoa học, nhiều tổ chức xã hội và nghề nghiệp.
Cùng với khối lượng đồ sộ những công trình nghiên cứu khoa học, GS Vũ Khiêu còn là tác giả của một số bài thơ, vở kịch, sách dịch và đặc biệt nổi tiếng với những tác phẩm được sáng tác theo thể văn cổ rất khó sáng tác đối với thế hệ nhà văn đương đại, như: thể phú, văn tế, văn bia và câu đối. Hơn sáu mươi năm trước, dư luận cả nước đã hết sức xúc động trước bài Văn tế những lương dân chết đói (tháng 3-1945) của ông, khi đó là một giáo chức gần 30 tuổi. Bài văn tế với những dòng chan chứa xót thương, đến nay vẫn khiến hàng triệu người nghe thổn thức. Gần đây nhất, bài Chúc văn giỗ Tổ Hùng Vương của ông đọc tại lễ hội Đền Hùng năm 2000, là một bản hùng văn thể hiện được tâm tư, tình cảm của toàn dân hướng về cội nguồn dân tộc; cổ vũ tinh thần yêu nước, thương nòi, đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với hàng chục bài chúc văn, văn tế được coi là những mẫu mực về nội dung và niêm luật của loại văn này, GS Vũ Khiêu còn là tác giả của hàng chục bài văn bia đã được khắc chạm và đặt tại nhiều công trình lịch sử-văn hóa trong cả nước. Ngoài ra, ông còn có hàng trăm câu đối tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ, danh nhân và tặng bạn bè. Đó là những tác phẩm kết hợp giữa những niêm luật cổ kính với hình thức ngôn ngữ hiện đại, nên các thế hệ người đọc hôm nay vẫn cảm nhận được những nét tinh túy của nội dung và nghệ thuật.
Năm 2000, sau quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, Bộ Văn hóa-Thông tin đã gửi đến GS Vũ Khiêu bức thư cảm ơn và một đỉnh trầm có khắc hai câu kết của bài Chúc văn: “Giữ muôn đời Hồng Lạc tinh hoa. Cao muôn trượng Hùng Vương khí thế”. Từ bấy đến nay, mỗi khi soạn cổ văn ngợi ca danh nhân đất nước và truyền thống văn-võ của dân tộc, GS Vũ Khiêu lại đốt trầm trong đỉnh quý của Nhà nước ban tặng. Mới đây, mừng GS thượng thọ 90 tuổi, Hội cựu giáo chức Việt Nam đã xuất bản cuốn sách hơn 300 bài thơ, câu đối của thân hữu, đồng nghiệp, học trò và đồng chí, đồng bào cả nước viết tặng ông. GS đã viết đôi câu đối cảm tạ:
Ly rượu chín mươi, mai trúc như quên đầu ấy bạc.
Tấc lòng muôn dặm, hải hồ những nhớ mắt ai xanh!
HOÀNG MINH THƯ