Có thể nói một cách khái quát là quãng đời bộ đội của anh Lê Quang Đạo được đánh dấu bằng hai hình ảnh: một Lê Quang Đạo- Tuyên huấn và một Lê Quang Đạo- Chính ủy mặt trận. Phải nói rõ là Chính ủy mặt trận vì Lê Quang Đạo xuất hiện ở cương vị Chính ủy thường vào những thời điểm quyết liệt, ở những hướng quan trọng.

Chính ủy mặt trận

Tôi còn nhớ hồi chiến dịch Điện Biên Phủ, khi ấy tôi là Phó chính ủy Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, được Phòng Chính trị thông báo là anh Song Hào, Chính ủy Đại đoàn bị ốm, cấp trên phái anh Lê Quang Đạo, Cục trưởng Cục Tuyên huấn-Tổng cục Chính trị về thay. Anh Đạo về Đại đoàn 308 trong một tình huống vô cùng khẩn trương. Lúc đầu, Đại đoàn 308 được giao nhiệm vụ đánh vào trung tâm Mường Thanh. Khi Đại tướng Tổng tư lệnh kiêm chỉ huy trưởng Mặt trận quyết định thay đổi phương thức tác chiến thì Đại đoàn 308 được lệnh cấp tốc tiến quân về hướng Luông Phra-băng (kinh đô cũ nước Lào) nhằm đánh lạc hướng phán đoán của địch, thu hút không quân của chúng, tạo điều kiện cho quân ta kéo pháo ra, xúc tiến mọi việc chuẩn bị để thực hiện phương thức “đánh chắc tiến chắc”.

Trung tướng Lê Quang Đạo (ngoài cùng bên phải) và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo tác chiến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Ảnh tư liệu

Người mà anh Đạo cộng tác lần này không phải ai xa lạ, chính là Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ. Hai người đã quen biết nhau từ lâu và đây là lần thứ hai cùng ở trong một Đảng ủy Mặt trận. Lần trước là hồi đầu kháng chiến chống Pháp, lúc đó Lê Quang Đạo 25 tuổi, Vương Thừa Vũ 36 tuổi, hai người đã tham gia Đảng ủy mặt trận Hà Nội do anh Nguyễn Văn Trân làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ thành phố. Anh Đạo là Phó bí thư, anh Vũ là Phó chủ tịch kiêm Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội. Lần này hai người lại gặp nhau và cũng chỉ huy mũi tiến quân về Luông Phra-băng.

Thực hiện nhiệm vụ này đầy rẫy khó khăn: chiến trường chưa được chuẩn bị, tình hình địch chưa cụ thể, khó nhất là không có bảo đảm hậu cần. Anh Vũ là một con người “quân lệnh như sơn”. Nhận lệnh trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua điện thoại, anh Vũ không hề ngần ngại, chỉ xin chỉ thị về quy mô sử dụng lực lượng. Đại tướng chỉ thị: “Toàn quyền quyết định, từ một tiểu đoàn đến cả đại đoàn. Hậu cần tự giải quyết. Đúng 4 giờ chiều nay xuất phát”. Lúc nhận lệnh là 14 giờ 30 phút ngày 26-1-1954.

Lê Quang Đạo giúp Vương Thừa Vũ tiến hành hội ý Thường vụ Đảng ủy Đại đoàn. Cảm thấy sự chuyển hướng nhiệm vụ này nhất định phải có một tầm nhìn chiến lược mà lúc đó mọi người chưa thể hiểu hết, nhưng “ta tin ở ta, ta tin ở trên, nhất định giặc thua” (câu hát của chiến sĩ). Còn các khó khăn, đó là một thực tế phải tìm mọi cách khắc phục để đưa quân lên đường ngay lập tức. Đại đoàn chia làm hai cánh đưa quân khẩn trương xuất phát, tiến quân thần tốc, gặp địch là đánh, tự giải quyết hậu cần, sau hơn 10 ngày giải phóng toàn bộ lưu vực sông Nậm Hu, tiến sát đến Luông Phra-băng. Được lệnh trở về, lại thần tốc quay lại, kịp tham gia đợt đầu cuộc đại tấn công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Cuộc tiến quân đến sát Luông Phra-băng đã trở thành “đòn chiến lược thứ năm” buộc Na-va (Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương) một lần nữa phải phân tán khối cơ động chiến lược của chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tập trung tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ. Tiếp đó, anh Đạo đã sát cánh với anh Vũ lãnh đạo chỉ huy đại đoàn hoàn thành mọi nhiệm vụ cho đến khi toàn thắng ở Điện Biên Phủ.

Sau thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, anh Đạo về Tổng cục Chính trị làm Phó chủ nhiệm phụ trách công tác tuyên huấn, anh Phạm Ngọc Mậu, Chính ủy công pháo về làm Phó chủ nhiệm phụ trách công tác tổ chức. Sau khi anh Nguyễn Chí Thanh chuyển công tác khác, anh Song Hào là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

Trung tướng Lê Quang Đạo (bên phải) tại chiến dịch Đường 9-Khe Sanh năm 1968. Ảnh tư liệu

Một thời gian sau, tôi được điều lên Tổng cục làm Trưởng phòng Tuyên truyền, Cục phó Cục Tuyên huấn, Cục trưởng Cục Văn hóa, trực tiếp làm việc hằng ngày với anh Đạo. Điều may mắn là mỗi khi anh Đạo ra trận, tôi lại được đi cùng để làm công tác tuyên huấn mặt trận. Chỉ trừ chiến dịch Khe Sanh, tôi là phái viên của Tổng cục đi Khu 5 chưa về, anh Nguyễn Trọng Yên – Cục trưởng Tuyên huấn đi giúp anh Đạo, còn các chiến dịch đường 9 – Nam Lào, Quảng Trị, tôi cùng đi với anh Đạo.

Nói về những chuyến ra trận với anh Đạo, phải kể trước hết cuộc “đụng đầu” với không quân Mỹ ngay từ trận đầu 5-8-1964. Mọi người còn nhớ: đế quốc Mỹ dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” lấy cớ để dùng không quân và hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc hòng cứu vãn thế sa lầy của chúng ở miền Nam. Thấy trước âm mưu thâm độc của Mỹ, ngay từ cuối tháng 3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập “Hội nghị chính trị đặc biệt”. Đây là hội nghị Diên Hồng trong thời đại mới. Hội nghị đã biểu thị ý chí sắt đá của quân và dân ta quyết chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị liên tiếp đi kiểm tra tình hình sẵn sàng chiến đấu ở các đơn vị, đặc biệt là Quân khu 4, các Quân chủng Phòng không – Không quân và Hải quân. Anh Đạo đi kiểm tra Quân khu 4. Sau khi nghe anh Nam Long – Tư lệnh quân khu báo cáo, anh Đạo đi thẳng từ sở chỉ huy Núi Quyết xuống căn cứ hải quân sông Gianh. Cách căn cứ vài trăm mét, vừa lúc đó, trưa ngày 5-8-1964, từng đoàn máy bay phản lực Mỹ xuất hiện trên bầu trời, gầm rú, bổ nhào, ồ ạt ném bom bắn phá cửa sông Gianh. Các tàu hải quân ta bắn trả quyết liệt.

Tôi vội đưa anh Đạo tạm lánh vào một cái cống bên đường, đồng chí lái xe nhanh trí đưa chiếc Pô-bê-đa màu nâu sữa vọt lên nấp dưới một lùm cây. Anh Đạo ghé sát tôi nói: “Theo dõi diễn biến! Nhanh chóng đưa tin chiến sự!”. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này tôi vẫn còn nghe văng vẳng bên tai câu nói đó: “Theo dõi diễn biến! Nhanh chóng đưa tin chiến sự!”, một mệnh lệnh tác chiến của ngành tuyên huấn chúng tôi.

Sau đợt oanh tạc, tôi cấp tốc trở về Sở chỉ huy Quân khu 4. Qua điện thoại với Cục Tác chiến, tôi được biết là địch đã sử dụng tới 64 lần chiếc máy bay đánh phá 4 căn cứ hải quân của ta ở sông Gianh, Cửa Hội, Lạch Trường, Bãi Cháy và kho dầu Vinh. Ta bắn rơi 8 máy bay phản lực và cánh quạt, bắn bị thương nhiều chiếc khác, bắt sống một giặc lái là An-va-rết ở Quảng Ninh. Qua Thông tấn xã Việt Nam và Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Cục Tuyên huấn loan tin đánh thắng trận đầu trên miền Bắc.

“Anh cả” ngành tuyên huấnquân đội

Con người Lê Quang Đạo không phải chỉ dành riêng cho quân đội và ngành tuyên huấn quân đội. Anh còn đảm nhiệm nhiều trọng trách do Đảng và nhân dân giao phó như Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Nhưng ngành tuyên huấn quân đội vẫn muốn dành riêng anh về mình, nhớ về anh như một người anh cả. Anh là Cục trưởng Cục Tuyên huấn đầu tiên và nhiều năm về sau, khi là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, anh vẫn phụ trách ngành tuyên huấn quân đội.

Tôi trân trọng giữ gìn trong ký ức những kỷ niệm về anh. Tôi viết những dòng này mà không cầm được nước mắt. Nhắm mắt lại thấy anh, tôi thương tiếc, nhớ anh như thương nhớ người anh cả đã xây dựng và chỉ đạo ngành tuyên huấn trong suốt chiều dài năm tháng anh phục vụ trong quân đội. Một con người mẫu mực để làm công tác tư tưởng và văn hoá. Một con người tài năng và tâm huyết. Đầy sức thuyết phục, hấp dẫn bởi tri thức và tấm lòng. Một tâm hồn nhạy cảm, nhân ái, vị tha. Một trí tuệ sắc sảo không khuôn sáo, luôn luôn tìm tòi, luôn luôn phát hiện, luôn luôn đổi mới. Bao trùm lên trên hết là một phẩm chất cộng sản vì nước vì dân, chí công vô tư.

Trong buổi họp mặt đầu tiên của Cựu chiến binh Cục Tuyên huấn, anh chị em về dự đông đủ, duy có anh Đạo bận công việc, không về được. Nhưng đã có chị Nguyệt Tú thay mặt anh đến gặp gỡ anh chị em. Những người dự cuộc họp đã nhờ chị Tú chuyển đến anh Đạo một bó hoa và nói với anh là các thế hệ tuyên huấn quân đội trưởng thành lên và hoàn thành tốt nhiệm vụ trong hai cuộc kháng chiến là nhờ anh Đạo dìu dắt. Đối với anh, chúng tôi có một lòng biết ơn, một sự ngưỡng mộ và hơn thế nữa, một lòng yêu mến.

Lê Quang Đạo là một nhà hoạt động tư tưởng và văn hóa xuất sắc. Anh có tâm và tài. Anh có tính nguyên tắc rất cao, rất chặt chẽ về quan điểm đường lối, rất kỹ lưỡng về chữ nghĩa, cực kỳ khó tính khi thông qua các văn kiện, nhưng tấm lòng anh rộng mở, trái tim anh thật nhân hậu. Nghiêm khắc đấy mà tình nghĩa đấy. Anh sống trung thực, không thành kiến, không áp đặt mà cuốn hút, thuyết phục mọi người bởi trí tuệ và tâm hồn anh. Anh có một lối diễn đạt trong sáng, phản ánh một tư duy khoa học. Anh luôn luôn tìm tòi, luôn luôn phát hiện cái mới. Anh chú trọng “xây để chống”. Anh tin ở con người, hiểu biết con người…

Tôi nhiều năm công tác ở Cục Tuyên huấn nhận thấy trong cơ quan có hai lực lượng: lực lượng công tác tuyên truyền, giáo dục tác động nhiều vào lý trí, trí tuệ; lực lượng công tác văn hóa, văn nghệ tác động nhiều vào lĩnh vực tình cảm, tâm hồn. Một bên nặng về tư duy bằng lý luận, một bên nặng về tư duy bằng hình tượng. Hai lực lượng này cũng có lúc “chê” nhau nhưng được một điều tốt là trong quân đội gắn bó với nhau bằng xương máu, đoàn kết với nhau trên nhiệm vụ, trên tình đồng chí, trên nguyên tắc Đảng.

Anh Đạo dặn tôi: Đoàn kết họ lại, khéo tổ chức hiệp đồng trong mọi công tác của Cục. Nhờ đó tôi đã làm được một số việc góp phần vào thành công của công tác tuyên huấn quân đội thời chống Mỹ. Nhớ anh Đạo là nhớ đến điều đó.

Trung tướng HỒNG CƯ