 |
Kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I, cuối tháng 10, đầu tháng 11-1946 |
Tháng 10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pháp mới trở về Hà Nội được một tuần, theo yêu cầu của Chính phủ, Ban thường trực Quốc hội đã triệu tập kỳ họp thứ hai từ 28-10 trong tình hình chính trị đất nước đang diễn ra hết sức khẩn trương. Ngày 2-3, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội sau tổng tuyển cử chỉ diễn ra trong hơn 4 giờ đồng hồ, đã lập ra Chính phủ liên hiệp kháng chiến (LHKC), là chính phủ chính thức đủ tư cách pháp lý và hiệu lực trong công tác đối nội cũng như đối ngoại của đất nước. “Chính phủ LHKC có nhiệm vụ thực hiện triệt để sự thống nhất các lực lượng của quốc dân về phương diện quân sự, tuyên truyền cũng như về phương diện hành chính tư pháp, tổng động viên nhân lực và tài sản của quốc gia theo nhu cầu của tình thế, để đưa kháng chiến đến thắng lợi và nước nhà đến độc lập hoàn toàn”. Trước đó, ngày 28-2, chính phủ Tưởng Giới Thạch và Pháp đã ký với nhau Hiệp ước Hoa-Pháp. Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chuyển sang thực hiện sách lược hòa hoãn với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng về nước, bằng việc ký Hiệp định sơ bộ 6-3 với Pháp.
Mất chỗ dựa, bọn Việt quốc, Việt cách tay sai của Tưởng bỏ chạy theo quan thầy, một số tên chạy vào Nam làm tay sai cho Pháp... Nhưng cuộc đàm phán Phông-ten-nơ-blô để ký một hiệp định chính thức không đi đến kết quả vì phía Pháp bám chặt lập trường thực dân hiếu chiến, có nghĩa thùng thuốc súng ở Việt Nam càng được hâm nóng, chiến tranh sẽ lan rộng, quyết liệt. Cơn sóng chiến tranh do Pháp gây nên ngày một dâng cao, chúng đã mở rộng lấn chiếm lên Tây Nguyên, đánh ra Tây Bắc... và chiến tranh đã lan sang tận Lào, Cam-pu-chia...
Tám tháng kể từ kỳ họp thứ nhất (2-3), dưới sự chỉ đạo sáng suốt, khoa học của Chính phủ LHKC do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đất nước đã vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách, đạt tới “một địa vị khả quan”. Chính phủ đã nỗ lực xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất dân tộc, củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang và chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến. Đến kỳ họp thứ hai này kéo dài 13 ngày đã thảo luận, tranh luận nhiều và đã thông qua nhiều quyết nghị về nội trị, ngoại giao, kinh tế, đặc biệt là về việc lập chính phủ mới, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Quốc hội đã quyết nghị tán thành chính sách chung của Chính phủ, nhận sự từ chức của Chính phủ LHKC và một lần nữa lại trao quyền cho Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng ra lập Chính phủ mới theo nguyên tắc “đoàn kết và tập hợp nhân tài”.
Được sự ủy thác của Quốc hội và nhằm mục tiêu mở rộng hơn nữa tính chất đại đoàn kết dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa vào chính phủ mới những nhà yêu nước chân chính thuộc các đảng phái khác nhau có tài, đức, hết lòng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, và cả một số thành viên Việt quốc, Việt cách đã rời bỏ tổ chức của họ, có xu hướng ủng hộ cách mạng. Trả lời chất vấn về việc đào nhiệm của những nhân vật như Nguyễn Hải Thần, Phó chủ tịch; Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng ngoại giao; Vũ Hồng Khanh, Phó chủ tịch Quân ủy hội... Người nói: “Đang lúc nước nhà gặp bước khó khăn mà các ông ấy lại bỏ đi (theo quân Tưởng rút về nước) thì các ông ấy phải hỏi lương tâm mình thế nào? Những người bỏ đi kia họ không muốn gánh vác việc nước nhà hoặc họ không đủ năng lực gánh nổi. Nay không có họ ở đây, chúng ta cũng cứ gánh được như thường...”. Nhiều đại biểu chất vấn về việc Bộ trưởng kinh tế Chu Bá Phượng (thuộc Việt Nam quốc dân đảng), lợi dụng dịp sang Pa-ri đã mang theo vàng buôn lậu bị nhà chức trách Pháp bắt giữ, báo chí tư sản lợi dụng rêu rao để làm mất uy tín phái đoàn Chính phủ ta đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô. Với tinh thần khoan dung, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đỡ lời cho ông ta: “Các báo Pháp có đăng một vài tin. Những tin ấy có thật hay không thì cũng đã qua rồi. Vả lại cũng chẳng có ảnh hưởng gì lớn, xin thôi đừng nhắc nữa. Nếu trong Chính phủ còn có những người khác lầm lỗi, thì lỗi ấy tôi xin chịu, xin gánh và xin lỗi đồng bào...”. Và khi trình danh sách Chính phủ mới, để tỏ rõ chính sách đại đoàn kết, Người vẫn giữ Chu Bá Phượng ở lại làm Bộ trưởng nhưng sang phụ trách Bộ cứu tế...
Được Quốc hội tín nhiệm trao quyền đứng ra lập Chính phủ mới, Người nói: “Lần này là lần thứ hai Quốc hội giao cho tôi phụ trách lập Chính phủ. Nước Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận. Giờ đây tôi tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được “thăng quan, phát tài”. Chính phủ sau đây là một chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài, không phân đảng phái... tỏ rõ tinh thần quốc dân liên hiệp. Chính phủ này là chính phủ toàn quốc có đủ nhân tài Nam-Trung-Bắc tham gia. Nhiệm vụ của Chính phủ là chú trọng thực tế và nỗ lực làm việc để tranh thủ nền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới. Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: Tôi chỉ có một Đảng, Đảng Việt Nam” (Ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật, nên Người đã tuyên bố như vậy).
Chiều ngày 2-11-1946, Quốc hội đã thông qua các thành viên Chính phủ mới do Hồ Chí Minh lập, gồm 12 bộ, Người giữ chức Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. Cụ Huỳnh Thúc Kháng (không đảng phái) vẫn giữ Bộ trưởng Nội vụ; Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp (thuộc Việt Minh); Phạm Văn Đồng (Việt Minh) chỉ giữ chức Thứ trưởng, còn Bộ trưởng kinh tế dành cho một vị ở Nam Bộ; Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hoè (thuộc đảng Dân chủ), Bộ trưởng cứu tế Chu Bá Phượng (thuộc Việt quốc)...
Do thực tiễn lịch sử, tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa các giai cấp, đảng phái... cho nên tới kỳ họp thứ hai này của Quốc hội khoá 1, Chính phủ nước Việt Nam DCCH đã trải qua 4 lần thay đổi thành viên nội các và cơ cấu, để hoạt động ngày càng hiệu quả, Chính phủ không ngừng được cải tổ, mở rộng. Ngày 3-11-1946, Chính phủ mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh lập và đứng đầu ra mắt Quốc hội, về cơ bản đa số các thành viên vẫn là những nhân sĩ trí thức yêu nước, có uy tín cao với nhân dân là những người yêu nước chân chính, những người xứng đáng là đại diện cho nhân dân. Đó là một Chính phủ đoàn kết toàn dân, một Chính phủ mà chỉ sau đó 7 tuần lễ đã đảm đang trọng trách “lãnh đạo quốc dân trong cuộc kháng chiến toàn quốc kéo dài suốt 8 năm” đi đến thắng lợi cuối cùng.
HẢI TIẾN