Năm 1990, giáo sư Đinh Xuân Lâm và tiến sĩ Đỗ Quang Hưng (nay là Viện trưởng Viện Tôn giáo) cho rằng tôi là lính Cụ Hồ, có quen biết với Bộ Tổng Tham mưu nên nhờ tôi “xin” thêm những thông tin về tướng Nguyễn Sơn để in trong tập 3 “Danh nhân lịch sử Việt Nam” (NXB Giáo dục đã xuất bản năm 1992).
 |
Tướng Nguyễn Sơn và gia đình (1956) |
Sau một thời gian “
thư tư” “
thư công” không có kết quả, có lẽ vì “
bảo mật”, chúng tôi đến nhà cô Thanh Hà, kỹ sư, con gái tướng Nguyễn Sơn để tìm kiếm thêm những con số cho chính xác. Gia đình chị Thanh Hà tuy có ít nhiều phấn khởi, nhưng lại khiêm tốn (hay vì lý do nào khác) cũng nêu ý kiến “
tốt nhất là để cơ quan có trách nhiệm cung cấp”.
Hai vị giáo sư và tiến sĩ bàn nhau rồi nhất trí “trong phạm vi cho phép của một người làm sử, cứ công bố điều đã biết, nếu thiếu, sai sẽ bổ sung”. Và tập 3 “Danh nhân Việt Nam” từ sau Cách mạng Tháng Tám đến đại thắng mùa xuân năm 1975” đã giới thiệu 72 danh nhân lịch sử, quân sự (như Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Khang, A Dừa, Thích Quảng Đức, Huỳnh Tấn Phát, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Bùi Công Trừng…) ở trang 52 có mục “Nguyễn Sơn - 1908-1956” với trên dưới 400 chữ. Trong 400 chữ đó-so với 5 tập sách sau này viết về Nguyễn Sơn thật là quá ít ỏi-nhưng cũng đã “mạnh dạn” nêu lên được những thông tin: “tên thật là Vũ Nguyên Bác, năm 1924 sang Thái Lan rồi đến Quảng Châu, học trường Hoàng Phố “đi” Vạn Lý Trường Chinh”, sau 1945 Tư lệnh Liên khu 5, rồi Khu 4, năm 1948 được phong Thiếu tướng, năm 1950 được cử sang Trung Quốc công tác, năm 1956 về nước, mất tại Hà Nội…”. Nguyễn Sơn là tác giả nhiều bài viết ký tên Lam Phong, Ngọc Anh, Hồng Thủy…”(1).
Tập 3 này in 6.000 bản, giá bán có 2.500 đồng. Mấy tháng sau khi sách ra mắt, trong xã hội có mấy nguồn tin. Nguồn thứ nhất không rõ từ đâu cho là “không được phép mà công bố những điều còn phải giữ…”. Nguồn thứ hai “Nguyễn Sơn là một vị tướng, công lao so với người này còn kém, thậm chí kém xa, nhưng với người kia lại hơn, hơn hẳn… ít nhất là về “cái huyền thoại” của ông. Bạn đọc mong muốn được biết nhiều hơn nữa về việc “đi” Vạn Lý Trường Chinh-của Hồng quân công nông Trung Quốc, mà ông là một cán bộ, “đi” 30 vạn người, về đến căn cứ sống chỉ đếm được vài ba ngàn, mà ông lại có tên trong danh sách sống ấy… Còn thời gian ở Việt Nam, làm sao mà ông “lắm chuyện đồn” thế. “Có một sổ thanh toán mật phí của Bộ Tư lệnh Liên khu 4 đặt ở một hiệu phở ngon nổi tiếng ở rừng Thông, Thanh Hóa, bản thân ông, thư ký, cảnh vệ rồi cán bộ ở Bình Trị Thiên ra, văn nghệ sĩ… cứ vào ăn, ăn xong ghi họ tên… để sau đó “sẽ có người cuối tháng ra trả tất tần tật” (chẳng biết tiền của ông tướng có bao nhiêu, để rồi sau đó ông lại mang tiếng là “chi tiêu vô tổ chức”!). Rồi nào là đi xe đạp cuốc Stécling-một loại xe Pháp rất tốt-lượn trên các con đường quê ở Nam Cai, Thọ Xuân, Nông Cống… hai tay đút túi áo bludông Mỹ, lái xe bằng “mông”… Một số thành viên của Hội khoa học lịch sử Việt Nam đề nghị “đột phá” về danh nhân “lắm chuyện” này. Với chức danh mà xã hội giao cho là “đi tìm sự thật”, “không để sót một người có công”, “không được quên đi một đóng góp với Tổ quốc, dân tộc”.
Vận động, lắng nghe, thăm dò, xin phép để cuối năm 1993-nhân kỷ niệm 85 năm ngày sinh Nguyễn Sơn-tổ chức một lễ tưởng niệm ông-mời thêm một số nhà khoa học, sử học, nhân chứng… Theo nguyện vọng của nhiều hội viên Hội lịch sử và cũng là của nhiều người khác, kể cả gia đình đông đảo của Nguyễn Sơn là “Ban tổ chức phải làm sao mời được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tới dự, chứng kiến các ý kiến và phát biểu chính thức về tướng Nguyễn Sơn.
Và tôi được giao nhiệm vụ vào trình bày với Anh Văn-mặc dầu Tổng Thư ký Hội là ông Dương Trung Quốc đã quá quen biết Đại tướng.
Qua tìm hiểu một số cán bộ cao cấp thời chống Pháp, tôi được nghe, mới có ý kiến cho là giữa Anh Văn và Nguyễn Sơn “mất đoàn kết”. Tôi thưa lại ý này với Anh Văn. Đại tướng cười và bảo tôi: “Để hôm sau mình nói một thể”. Thế là may quá. Tôi dặn đi dặn lại, nhờ Đại tá Huyên, thư ký của Đại tướng ghi vào lịch công tác “nhớ nhắc Anh Văn, thậm chí “đôn đốc” để Anh đừng quên, để Anh ra “với Hội, với anh chị em, tất nhiên là cả với đông đảo đồng bào…”. Anh Huyên nói “Yên trí. Yên trí”.
Ngày 31 tháng 12 năm 1993, tháng cùng, năm tận, “cuộc sinh hoạt tưởng niệm lần thứ 85 ngày sinh tướng Nguyễn Sơn được tổ chức. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến cùng với trên dưới 200 khách mời, “khách không mời, xin đến, vẫn đến”. Trong buổi sinh hoạt này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có bài phát biểu về tướng Nguyễn Sơn, đánh giá “cũng như anh Phùng Chí Kiên, anh Nguyễn Sơn đã sớm tham gia cách mạng, là một chiến sĩ cách mạng ưu tú của Đảng, là vị tướng nước ngoài duy nhất của quân giải phóng Trung Quốc, là một chiến sĩ cộng sản kiên định, con người có khí phách… chẳng những có tài về quân sự mà còn có khả năng về chính trị, về tuyên huấn, về văn nghệ, coi trọng bạn bè, có chút ngang tàng” (như có đồng chí nói…). Anh đã tham gia tích cực, có nhiều ý kiến sâu sắc về đào tạo cán bộ, về tác chiến, xây dựng chủ lực, xây dựng lực lượng dân quân. Anh nói chuyện sôi nổi, hấp dẫn, quý trọng đồng chí, đồng đội; nhiều khi trò chuyện thâu đêm, say sưa, cởi mở. Tiếc rằng, anh ra đi quá sớm. Nhưng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, cũng như trong lòng mỗi người chúng ta, anh vẫn còn sống mãi…”.
Cũng trong buổi lễ ấy, tôi có bài phát biểu “Tiếp cận Nguyễn Sơn”. Tôi tóm tắt: “19 tuổi học Trường quân sự Hoàng Phố, 24 tuổi dự Hội nghị Tuấn Nghĩa của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã đi bộ hai vạn sáu ngàn dặm Vạn Lý Trường Chinh, 29 tuổi là chính ủy sư đoàn, hai lần bị khai trừ Đảng, hai lần kết nạp lại, một lần lưu Đảng đi chăn dê, chăn cừu… Nguyễn Sơn sống mãi trong tâm linh của mỗi người chúng ta”.
Hội khoa học lịch sử sau đó quyết định ra sách “Tướng Nguyễn Sơn”. Sách là một “tập hợp” tiếng nói, tấm lòng của nhà báo Thái An, của các nhà sử học Phạm Xanh, Dương Trung Quốc, nhà thơ Hữu Loan. Có bài của người đã mất như thi sĩ Hồ Dzếnh, nhà viết kịch Bửu Tiến, có bài của nhà văn quân đội Trung Quốc Lý Linh… và ra mắt bạn đọc vào tháng 8 năm 1994.
Chỉ in được 1.000 cuốn nên mấy tháng sau không còn sách để mua. Bạn đọc ở Thanh Hóa-quê Hữu Loan, ở Huế, ở Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh đã phải “phô tô” nhiều cuốn để đọc, để tặng nhau…
Tháng 12 năm 1994 ấy, tôi có được tham dự Hội thảo quốc gia kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ở Cao Bằng. Trong giờ nghỉ buổi sáng khai mạc Hội thảo, một vị tướng đương chức hỏi tôi:
- Quân đội có bao nhiêu tướng, trung tướng, thượng tướng, đại tướng sao cậu lại chọn Nguyễn Sơn để viết?
Tôi thưa:
- Sách “Tướng Nguyễn Sơn” có 21 người viết. Tôi viết hai bài vì tôi được biết Nguyễn Sơn và có tình cảm với Nguyễn Sơn. Còn các anh khác, tôi không được biết nhiều…”. Dù tôi không còn sao trên mũ (về hưu rồi) nhưng vị tướng vẫn “tra tấn”:
- Biết thế nào?
- Thưa anh, năm 1947, 1948 gì đó, trước khi đi bộ đội, tôi được nghe Nguyễn Sơn nói chuyện với đồng bào huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng 8. Có 4 cái bàn to làm bục, một cái bàn con, một ghế dựa và một người râu hàm én, người xương xương, được giới thiệu là “cán bộ liên khu” lên “nói chuyện với chúng ta”. Lâu lắm rồi, tôi có thể nhớ không chính xác câu, chữ nhưng ý chung là thế này: “Nguyễn Sơn bước lên bàn, giơ thẳng tay lên trời, cả đám đứng im lặng hẳn: “Thưa đồng bào, có tin đồn Tây sẽ vào Thanh Hóa. Tin đồn có thể đúng, có thể sai. Cứ cho là đúng đi! Vào Thanh Hóa, Tây chỉ đi được 3 đường: đường biển, đường thủy, đường không. Vào đường biển thì Thanh-Nghệ-Tĩnh không phải nơi nào cũng đổ bộ được. Chỗ khó, ta canh phòng. Bãi biển Sầm Sơn ta trông chừng, chôn mìn… Cứ cho là nó vào được đi. Mấy ngàn đứa. Nhiều nó không có. Cứ cho nó năm ngàn. Đổ bộ vào, ăn đạn, ăn mìn của dân quân, từ xa đến bờ… mất độ ngàn. Lên đến bờ, xe tăng được mấy cái, đường từ Sầm Sơn lên thị xã đã bị đào đứt, người đi, lính đi còn khó, hai bên đường dân quân, du kích bắn tỉa, ném lựu đạn, 15 cây số, đi nhanh một ngày mới đến thị xã. Đến thị xã làm gì? Chẳng làm gì. Nhà cửa đã tiêu thổ kháng chiến rồi. Ở với ai? Dân đi hết. À còn, còn ở với chuột cống”.
Dân hoan hô, vỗ tay như sấm…
Ông hỏi ban tổ chức:
- Canh gác máy bay đầy đủ chứ?
Sau khi được báo cáo là có mấy chòi đã phân công người hướng dẫn đồng bào chạy vào ruộng ngô kín trên bãi, ông gật đầu và tiếp tục: “Bây giờ cho nó vào đường thủy. Vào Lạch Trường theo sông Mã, cho là nó đến phà Kiểu lên Thạch Thành… thì hai bờ sông nó sẽ bị ăn đạn, ăn thủy lôi… Nhảy dù thì nó ít tàu bay, nhảy xuống ruộng chiêm, ta để gốc rạ, nó vướng; xuống ruộng mùa, nó lội không được, mà nó lại sợ đỉa lắm”.
Tiếng cười lại vang lên…
“Tôi xin lộ một bí mật”. Ông dừng lại, đi mấy vòng quanh cái bàn. Người nghe im lặng đến thót tim, chờ đợi. Vì trong kháng chiến bấy giờ “bí mật quân sự” là điều “ghê gớm” lắm, không ai hình dung được quy mô, tầm vóc, giá trị, nguy hại đến độ nào…
Ông nói “bí mật quân sự này là do ta để lộ mà Tây nó biết. Nó biết ở khu 4 này có một ông tướng Nguyễn Sơn, làm tướng của Hồng quân Tàu, đánh nhau với Tưởng dư trăm trận… Tôi có biết ông này. Nhưng một chứ đến mười ông Nguyễn Sơn mà đồng bào không đoàn kết, không canh phòng, dân quân không tập luyện đánh tỉa trước, bộ đội chủ lực không đấm được sau thì nó cũng cóc sợ Nguyễn Sơn, có đúng không”.
Tiếng trả lời “Đúng, đúng lắm…”.
Ông kết luận:
- Cụ Hồ đã nói, ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có súng gươm thì lấy đòn gánh, dao, liềm mà giết giặc. Không chịu làm nô lệ nữa. Đồng bào có nghe theo lời Cụ Hồ không?
- Có, có…
Và ông nhảy xuống đất, lẫn vào một nhóm quan lính-chắc là bảo vệ-đi khuất…
- Chỉ có thế thôi à?
- Thưa còn. Năm 1949-1950, tôi học Trường lục quân Trần Quốc Tuấn, một chiều thu được lệnh sang Trường Trung Cao (tôi có anh bạn cùng học thuở nhỏ ở trường, sau này là Nguyễn Trọng Hợp-Trung tướng, Cục trưởng Cục Cán bộ). Thầy hiệu trưởng Lê Thiết Hùng giới thiệu: “Đồng chí Nguyễn Sơn có một số ý kiến trao đổi với các đồng chí”.
Hôm ấy Nguyễn Sơn nói nhiều lắm. Tôi không nhớ hết chỉ ghi mãi trong óc hai chi tiết. Một, ông bảo chúng tôi là sĩ quan, là quan ai cũng thích vàng son. Vàng là vàng thật, tiền bạc, son là son môi, vợ đẹp, con khôn. Không ai trách, chỉ làm sao thích cho đúng. Nhưng trước khi có “vàng son” ấy, phải có công đánh giặc, giết nhiều giặc, giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào. Nhiều thành tích, nhiều chiến công sẽ được nhân dân tặng cho “vàng son”, là huân chương có màu son đỏ Tổ quốc, có vàng, sao vàng dân tộc…”. Thứ hai, ông kể chuyện giải phóng quân Trung Quốc đang đánh đuổi quân Tưởng Giới Thạch… “Cách mạng Trung Quốc chuyển biến lớn. Ai muốn biết Tàu Tưởng chạy thế nào, xin hỏi anh Thiết Hùng đây”. Ông vỗ vai Thiếu tướng Lê Thiết Hùng nói tiếp: “Trước tôi được phân công sống với ông Mao, anh Hùng phải làm tướng cho Tưởng Giới Thạch. Khi đánh nhau, tôi đánh cho anh Hùng phải chạy dài…”. Và cả hai ông tướng cười ha hả… thoải mái”.
Còn nhiều chuyện khác, dài lắm, khi nào có điều kiện xin kể anh nghe. Như chuyện Cụ Hồ viết thư gửi Nguyễn Sơn khi phong tướng, chuyện Nguyễn Sơn nói về “Truyện Kiều” ở lớp văn hóa kháng chiến khu 4, chỉ đứng, đi lại, uống nước lã, hút thuốc liền trong nhiều tiếng liên tục, khiến học viên vì nghe hay quá, không dám đi “toa lét”. Vì sợ lỡ mất câu chuyện…
Mấy năm sau, bạn đọc lại thấy có sách “Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn” rồi “Cuộc đời tướng Nguyễn Sơn” do anh Minh Quang, cán bộ Bộ Tổng tham mưu, con rể tướng Nguyễn Sơn viết, rồi lại “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” do bà Kiếm Qua, vợ người Trung Quốc của Nguyễn Sơn (còn khỏe mạnh sống ở Bắc Kinh, kể chuyện về mối tình của bà với Nguyễn Sơn), “Luận văn chính trị quân sự”, cộng là năm cuốn, trên dưới 10 năm, không kể hàng trăm bài viết trên báo trong nước, ở Trung Quốc, ở Pháp, Mỹ, Nhật. Không biết có làm phật ý ai không?
Nghe tin đâu sang năm 2008, với những thông tin mới phát hiện rất quý, rất ly kỳ… sẽ có một cuốn “Tập đại thành về Nguyễn Sơn” có thể dày ngàn trang, khổ lớn bằng ảnh?
Xin hãy chờ xem sách ấy nhân dịp 100 năm Nguyễn Sơn chào đời.
TS Nguyễn Văn Khoan
1. Những bút danh này có một “lịch sử” rất hay. Có dịp sẽ xin trình bày thêm.