Giữa năm 1949, Ri-vơ, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp đề xuất kế hoạch chiến lược mới, nội dung chủ yếu: tăng quân lập các binh đoàn cơ động, mở rộng chiếm đóng trung du và đồng bằng, củng cố tứ giác Lạng Sơn-Tiên Yên-Hải Phòng-Hà Nội, xúc tiến hoạt động bao vây căn cứ Việt Bắc, chú trọng thực hiện kế sách "lập ba dân tộc tự trị" để ngăn chặn sự liên hệ giữa cách mạng Trung Quốc với phong trào kháng chiến Việt Nam. Thực tế đòi hỏi ta phải chủ động tiến công địch. Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới với mục đích: tiêu diệt bộ phận sinh lực quan trọng của địch, mở thông đường giao lưu với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Hồ Chủ tịch nói đây là chiến dịch lớn nhất đầu tiên, chỉ được đánh thắng, không được bại.

Ngày 28-7-1950, Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng ủy chiến dịch do Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Bí thư, Tư lệnh chiến dịch; Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp Trần Đăng Ninh phụ trách chỉ đạo cung cấp chiến dịch Biên giới. Đầu tháng 8-1950, Tư lệnh chiến dịch tổ chức đoàn cán bộ tham mưu, hậu cần trực tiếp đi nghiên cứu thị xã Cao Bằng, một mục tiêu trọng yếu phải tấn công giải phóng. Sau cuộc thị sát, Đại tướng họp Đảng ủy mặt trận mở rộng lấy ý kiến. Ai cũng cảm thấy Cao Bằng khó đánh, nhưng chưa nói được sự thể và cách khắc phục. Chủ nhiệm Trần Đăng Ninh nêu ý kiến:

- Căn cứ vào trang bị vũ khí của bộ đội ta thì đánh vào thị xã khó thắng. Lại xét khả năng bảo đảm vận tải tiếp tế của lực lượng cung cấp chiến dịch hiện nay, ta chưa thể đáp ứng kịp theo yêu cầu tác chiến trên địa hình phức tạp như thế...

Chỉ huy trưởng các trung đoàn, đại đoàn cũng phát biểu nêu những khó khăn không thể khắc phục như: pháo bắn xa khó chính xác, bộ đội không có phương tiện vượt sông trong mùa lũ, chưa phải đơn vị nào của ta cũng có thể đánh được công sự kiên cố, mà ở đây lại dày đặc công sự hầm ngầm vững chắc... Đại tướng Tổng tư lệnh điềm tĩnh lắng nghe. Chờ mọi người phát biểu hết, ông mới nói:

- Những điều phân vân và những khó khăn trở ngại các đồng chí đã nêu lên là đúng. Có một vấn đề đặt ra: phải chăng để giải phóng tỉnh Cao Bằng chỉ có một phương sách tấn công trực tiếp vào hệ thống cứ điểm kiên cố ở thị xã? Bài học chiến thắng của các tiền nhân nước ta thế nào nhỉ? Nguyễn Trãi nói: "Đánh thành là hạ sách" khi mà giặc Minh cố thủ Đông Quan chờ tiếp viện. Quả nhiên là khó đánh, nhưng khi ta diệt được đạo quân Liễu Thăng, lập tức lũ giặc chiếm thành Đông Quan bỏ giáo xin hàng. Lại kinh nghiệm nóng hổi của bộ đội ta mới đây trong trận vây đồn mỏ Hém, buộc địch phải cứu viện, ta đã đánh một trận thắng lợi lớn.

Nếu ta không đánh vào hệ thống cứ điểm thị xã thì đánh ở đâu? Cuộc họp kiến nghị đánh đồn Đông Khê. Đảng ủy mặt trận phân tích các lí lẽ của tham mưu, hậu cần rồi nhất trí quyết nghị: đánh Đông Khê, chiếm cứ điểm, nhằm cô lập Cao Bằng, dụ địch ở Lạng Sơn lên ứng cứu. Ta tổ chức trận địa mai phục để tiêu diệt lớn quân địch tại đây. Thừa thắng ta sẽ tiến công giải phóng Cao Bằng.

Hồ Chủ tịch đến sở chỉ huy chiến dịch, nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo chủ trương của Đảng ủy mặt trận, Người hỏi hội nghị:

- Các chú còn phân vân gì không?

- Báo cáo Bác, không ạ! Mọi người đồng thanh.

Bác nói tiếp:

- Tất cả thật sự đồng lòng là tốt, như vậy mới có sức mạnh. Bác cũng đồng ý, phương án này có nhiều cái hay. Đông Khê là điểm xung yếu trong hệ thống phòng thủ của địch ở biên giới, nhưng lại là điểm quân địch tương đối yếu. Vì nó nằm ở giữa hai cụm căn cứ Lạng Sơn và Cao Bằng nên kẻ địch cho rằng ta không dám lẻn vào đánh nó. Nếu ta đánh vào Đông Khê, Lạng Sơn tất phải rung động, không còn gan lỳ cố thủ nữa, nó phải đi cứu nhau. Ta sẽ dàn quân ở chỗ hiểm mà đánh tất phải thắng. Lúc đó, ta không đánh thì ở Cao Bằng, quân giặc cũng sợ bị cô lập phải rút. Các chú rõ ý Bác rồi chứ?

- Rõ rồi ạ!-Tất cả đồng thanh

Bác quay sang nói với đồng chí Trần Đăng Ninh:

- Như vậy là ngành cung cấp của chú đỡ lo phải phục vụ một trận đánh vào chỗ quá rắn, nhưng lại phải vắt chân lên mà chạy mới kịp các cánh quân cơ động truy kích giặc đấy.

Đồng chí Vũ Xuân Chiêm lúc đó ngồi sau lưng Chủ nhiệm Trần Đăng Ninh cứ trố mắt nhìn. Ông nghĩ: "Ông Cụ nói chuyện chiến trận mà giản dị như việc nhà, việc cửa, thật dễ hiểu... Công tác vận động cũng phải như vậy mới làm cho quần chúng hiểu rõ chủ trương". Bác cũng nhìn thấy anh cán bộ trẻ tay lăm lăm cây viết chăm chú lắng nghe. Giờ giải lao, Người vẫy lại, ôn tồn hỏi:

- Chú làm việc cùng chỗ chú Ninh à?

- Vâng ạ!

- Ở cung cấp chú làm việc gì?

- Báo cáo Bác! Cháu làm công tác chính trị ạ.

- Đó là việc tuyên truyền vận động mọi người thực hiện chủ trương đường lối cách mạng. Công việc đó quan trọng lắm, nhưng phải có cặp tai thính, đôi mắt tinh tường mới làm tốt được. Chú hiểu chứ?

Thấy Vũ Xuân Chiêm chưa rõ ý, Bác vui vẻ nói:

- Bác kể chú nghe một chuyện nhé. Một lần Bác ở chỗ làm việc về nhà, chú bảo vệ đón, Bác khẽ gật, đưa tay lên miệng nói: "Cho Bác chút nước...". Chú bảo vệ đi vào rồi quay ra ngay, đưa thuốc và lửa cho Bác. Mấy chú đứng quanh cười ồ lên: "Bác khát hỏi nước sao lại đưa lửa". Bác nhận thuốc, đưa mọi người cùng hút và can anh em đừng rầy chú ấy, rồi hỏi: "Tại Bác nói không rõ hay tại chú ấy nghe nhầm, nhưng tại ai thì cũng có bài học là cán bộ nói cho dân nghe phải rõ ràng dứt khoát, và cũng chớ làm như chú bảo vệ dân xin nước, cán bộ lại cho lửa".

Rồi Bác cười:

- Chuyện chỉ có thế, chú thấy cái tai con mắt, cách nói khi làm công tác tuyên truyền với quần chúng quan trọng thế nào chứ?

Vũ Xuân Chiêm ghi nhớ suốt đời buổi tiếp xúc đầu tiên với Bác Hồ. Từ đấy anh tâm niệm: làm cán bộ chính trị là người truyền bá giáo dục đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Suy ra phải biết thận trọng khi nghe, trung thật thẳng thắn khi nói, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cán bộ, chiến sĩ khi làm.

NGUYỄN VIỆT PHƯƠNG