Bản thỏa hiệp tạm thời mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp ngày 14-9-1946 (Tạm ước 14-9), là “bước nhân nhượng cuối cùng” của chúng ta. Thế nhưng, trong khi ta nhân nhượng thì thực dân Pháp càng ra sức khiêu chiến. Nhận rõ âm mưu của kẻ thù, vừa từ Pháp về, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời tuyên bố với quốc dân, khẳng định lập trường kiên quyết đấu tranh giành độc lập và thống nhất hoàn toàn của Việt Nam: “
Tôi qua Pháp... mục đích cốt là để giải quyết vấn đề Việt Nam độc lập, cùng Trung, Nam, Bắc thống nhất. Vì hoàn cảnh hiện thời ở nước Pháp mà hai vấn đề chưa giải quyết được, còn phải chờ. Nhưng không trước thì sau, tôi dám quyết rằng: Việt Nam nhất định độc lập, Trung, Nam, Bắc nhất định thống nhất”.
Đảng và Chính phủ ta vừa chủ trương đàm phán với phía Pháp, xem đó cũng là một thứ vũ khí sắc bén đấu tranh với kẻ thù, vừa nhận thức đầy đủ rằng không thể bằng đàm phán mà giải quyết được vấn đề độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Do vậy, trong những tháng cuối năm 1946, mọi công việc chuẩn bị cho toàn quốc bước vào kháng chiến được xúc tiến hết sức khẩn trương.
Ngày 19-10-1946, tại số nhà 58 đường Nguyễn Du, Hà Nội, diễn ra Hội nghị quân sự toàn quốc do Thường vụ Ban chấp hành Trung ương Đảng triệu tập, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh. Tham dự hội nghị có các đồng chí cán bộ quân sự, chính trị chủ chốt từ chiến khu 4 trở ra và một số đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng. Từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, đây là hội nghị lớn nhất của Đảng ta. Hội nghị nhận định rằng: sau khi ký Tạm ước 14-9, thực dân Pháp đang chuẩn bị lấn về kinh tế, chính trị, cũng như về quân sự, nhưng chúng cũng lo đối phó, sợ bị ta tấn công trước. Do vậy, ta vừa phải ngăn chặn âm mưu của chúng trên từng mặt, từng địa phương, nhưng cũng phải tránh không để xung đột xảy ra sớm và lan rộng. Hội nghị rút ra kết luận “Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Nhiệm vụ của toàn quân, toàn dân ta lúc này là phải gấp rút tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng chất lượng, nhấn mạnh việc tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, chỉnh đốn cơ quan chỉ huy, xây dựng các ngành quân giới, quân nhu, quân y, tăng cường giáo dục tình hình và nhiệm vụ mới, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, chú trọng tự phê bình và phê bình, giữ vữäng kỷ luật nội bộ, giữ gìn bí mật, phát triển Đảng, kiện toàn chế độ chính trị viên và cơ quan chính trị, điều chỉnh cán bộ, thống nhất chương trình huấn luyện, lập cơ quan chuyên trách về cán bộ.
Để tiện chỉ đạo chiến tranh và phát huy khả năng độc lập tác chiến của từng địa phương, các chiến khu-đơn vị hành chính quân sự được chỉnh đốn và phân chia lại. Chiến khu 1 gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phúc Yên. Chiến khu 2: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Sơn La, Lai Châu. Chiến khu 3: Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình. Chiến khu 4: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Chiến khu 5: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum, Gia Lai. Chiến khu 6: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng. Chiến khu 7: Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Chợ Lớn, Tây Ninh, Gia Định, Sài Gòn. Chiến khu 8: Bến Tre, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Sa Đéc. Chiến khu 9: Cần Thơ, Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Bạc Liêu, Rạch Giá, Vĩnh Long và Trà Vinh. Chiến khu 10: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên. Chiến khu 12: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh, Quảng Yên.
Các đơn vị hành chính-quân sự mỗi chiến khu gồm Khu ủy, Ủy ban kháng chiến. Chính phủ quyết định giải thể Ủy ban hành chính Bắc Bộ, Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và thành lập Ủy ban kháng chiến miền nam Trung Bộ. Ở Nam Bộ có Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chính do Xứ ủy lãnh đạo.
Việc thống nhất lại cơ quan quân sự ở cấp trung ương được chính thức hóa trong kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (tháng 11-1946). Bộ Quốc phòng thống nhất với Quân sự ủy viên hội thành Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy, do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng, đồng chí Tạ Quang Bửu làm Thứ trưởng. Từ đây, Bộ Tổng tham mưu trở thành một thành viên trong Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy.
Để xây dựng chỗ đứng chân cho cơ quan đầu não kháng chiến, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy cử một phái đoàn cán bộ cùng với phái đoàn của Trung ương do các đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng chỉ đạo đi chuẩn bị căn cứ địa Việt Bắc. Khu vực các huyện Đại Từ, Phú Lương, Định Hóa, Chợ Đồn, Võ Nhai, Bắc Sơn được chọn để xây dựng An toàn khu (ATK). Ngoài căn cứ địa của Trung ương, theo chỉ thị của Trung ương và Bộ Quốc phòng, mỗi chiến khu trong cả nước tiến hành xây dựng từ một đến hai khu căn cứ kháng chiến làm chỗ đứng chân chỉ đạo kháng chiến.
Ngày 5-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Công việc khẩn cấp bây giờ”, nhằm chỉ đạo cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đẩy mạnh kháng chiến kiến quốc trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao. Người nêu rõ nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc lúc này là “Một mặt phá hoại. Một mặt kiến thiết. Phá hoại để ngăn địch. Kiến thiết để đánh địch”. Phải làm cho mọi người hiểu cuộc kháng chiến sẽ rất gay go, gian khổ bởi địch không dễ gì từ bỏ dã tâm xâm lược. Địch có vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, có đội quân xâm lược nhà nghề, nhưng tiềm lực của chúng có giới hạn. Trên cơ sở làm cho dân “có tín tâm và quyết tâm” mà:
“Tổ chức du kích khắp nơi.
Tăng gia sản xuất khắp nơi.
Dù phải rút khỏi các thành phố, ta cũng không cần.
Ta sẽ giữ tất cả thôn quê”.
Ngoài việc khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến, Đảng và Chính phủ vẫn tìm mọi cách kéo dài thời gian hòa hoãn để chuẩn bị thêm. Ngày 26-10-1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy quân đội ta gửi cho Va-luy, Tổng tư lệnh quân Pháp ở Đông Dương, đề nghị ngừng bắn ở Nam Bộ và cực nam Trung Bộ vào 0 giờ ngày 30-10 theo qui định của Tạm ước 14-9. Pháp đồng ý nhưng chỉ thực hiện trong một thời gian rất ngắn, sau đó chúng lại bội ước. Ngày 4-11-1946, tướng Pháp, Ny-ô, ra Bắc để cùng Chính phủ ta thảo luận và thành lập Ủy ban quân sự hỗn hợp thực hiện và kiểm soát đình chiến ở miền Nam theo tinh thần và lời văn của bản Tạm ước 14-9. Thế nhưng quân Pháp ở nhiều nơi vẫn thường xuyên gây sự nhằm tạo cớ phát động chiến tranh. Những tháng cuối năm 1946, không khí chiến tranh sục sôi từng ngày trên toàn cõi Việt Nam.
Quang Thái