Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975. Ảnh tư liệu

Thực tế tình hình sau Hiệp định Pa-ri cho thấy thời cơ chiến lược càng đến gần cũng là quá trình Tổng hành dinh khẩn trương nghiên cứu, cân nhắc, thảo luận về phương hướng và biện pháp chiến lược giành thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân kỷ niệm 34 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước chúng tôi xin giới thiệu những nét cơ bản về quá trình xây dựng và việc tổ chức thực hiện kế hoạch chiến lược này.

Từ đầu tháng 10 năm 1973, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 đã định hướng cho việc hình thành chiến lược giải phóng miền Nam. Nghị quyết xác định: Bất kỳ trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công.

Trước đó, do sớm nhận thức phương hướng chiến lược nên từ đầu năm 1973 Quân ủy Trung ương đã chỉ thị hình thành một Tổ trung tâm trong Bộ Tổng tham mưu có nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Từ đầu tháng 6 đến trung tuần tháng 8-1973, kế hoạch chiến lược đã được dự thảo ba lần, mỗi lần đều được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cho ý kiến để bổ sung sửa chữa. Mỗi lần dự thảo và bổ sung đều thấy xuất hiện những vấn đề mới cần được tiếp tục trao đổi, thảo luận. Đáng chú ý là ngay từ những ngày chuẩn bị Hội nghị Trung ương 21, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thường nhấn mạnh khả năng phát động tổng khởi nghĩa kết hợp với tổng công kích, lấy địa bàn chủ yếu là thành thị để giải phóng miền Nam. Do đó, trong lần dự thảo thứ ba, Tổ trung tâm đi sâu phân tích những đặc điểm của cuộc tổng khởi nghĩa, dự kiến thời cơ tổng khởi nghĩa có thể diễn ra và các biện pháp chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để tiến hành tổng khởi nghĩa, tổng công kích, lấy phát động quần chúng làm khâu chủ yếu nhất, trọng điểm số 1 là Sài Gòn. Tổng công kích – tổng khởi nghĩa trở thành vấn đề nổi bật được thảo luận rất nhiều trong những lần Bộ Chính trị thông qua kế hoạch chiến lược.

Sau khi hướng dẫn Tổ trung tâm nghiên cứu kinh nghiệm kết thúc chiến tranh của một số nước đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc… Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp liên hệ với tình hình thực tế miền Nam nước ta, khẳng định không thể đặt vấn đề tổng khởi nghĩa lên hàng đầu mà nhất thiết phải có những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tạo điều kiện tiến công vào sào huyệt chủ yếu của chúng trong các thành phố lớn, kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng để kết thúc chiến tranh. Trải qua nhiều lần trao đổi, cuối cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhất trí phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả thành thị và nông thôn với quả đấm chiến lược là các binh đoàn chủ lực, thực hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi. Tổ trung tâm tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh bản kế hoạch chiến lược theo phương hướng đó.

Một trong những điểm quan trọng trong kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam là yêu cầu, nhiệm vụ tiêu diệt và làm tan rã hơn một triệu quân đội Sài Gòn trong một thời gian nhất định, phải hoàn toàn khác với yêu cầu và nhiệm vụ đề ra trong cuộc Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân (1968) và cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Do đó, trong nhiều nội dung được nêu lên để nghiên cứu phân tích có hai vấn đề chủ yếu.

Về vấn đề thứ nhất (so sánh lực lượng), qua các nguồn tình báo chiến lược, Tổng hành dinh đánh giá: Chủ trương của Mỹ lúc này vẫn cố tìm cách duy trì chính quyền Sài Gòn để thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới; coi chính phủ cách mạng lâm thời chỉ là lực lượng đối lập, phủ định lực lượng thứ ba. Mỹ ra sức lôi kéo Trung Quốc, khoét sâu mâu thuẫn Xô - Trung hòng hạn chế viện trợ cho ta, gây sức ép nhằm buộc ta giảm hoạt động quân sự ở miền Nam. Mãi đến hội nghị cuối tháng 9 - đầu tháng 10-1974 (khi thông qua dự thảo kế hoạch lần thứ 7) Bộ Chính trị vẫn thận trọng nhận định: Ta phải vừa đánh vừa tiếp tục theo dõi phản ứng của Mỹ nhằm hạn chế khả năng can thiệp của chúng. Đến hội nghị thông qua lần thứ 8 (cuối tháng 12-1974 đầu tháng 1-1975) Bộ Chính trị vẫn chủ trương kiềm chế Mỹ, đánh đổ ngụy, hạn chế chiến tranh ở phạm vi miền Nam, đồng thời sẵn sàng đối phó phản ứng quyết liệt của Mỹ bằng không quân và hải quân…

Về vấn đề thứ hai (hướng tiến công chiến lược chủ yếu): Từ cuối tháng 5-1973, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng khẳng định: Buôn Ma Thuột là chỗ yếu chí tử của địch. Với nhận định đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trương phải đánh lớn, đánh đau, đánh hiểm mới giành được hoàn toàn bất ngờ, muốn vậy phải làm đường để sử dụng xe tăng, pháo lớn. Tuy nhiên, trong quá trình thông qua các bản dự thảo, việc chọn hướng chiến lược vẫn tiếp tục được trao đổi, thảo luận và qua đó xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau khi cân nhắc giữa các hướng: 1) Nam Bộ (mà trọng điểm là Sài Gòn-Gia Định); 2) Quân khu 1 và Quân đoàn 1; 3) Huế – Đà Nẵng và 4) Tây Nguyên… Bắt đầu bước vào hoạt động mùa khô 1974 – 1975, Tổng hành dinh sớm phát hiện khả năng đối phó của địch đã hạn chế rõ rệt. Quân đội Sài Gòn không còn sức chiếm lại các vị trí đã mất. Biện pháp chiến lược chủ yếu của chúng là bình định và lấn chiếm đã tỏ ra mất hiệu lực. Các chiến thắng của ta ở Thượng Đức (tháng 8-1974) và nhất là Phước Long (tháng 1-1975) cho phép khẳng định quân đội Sài Gòn không thể đương đầu với chủ lực của ta và sự phản ứng của Mỹ chỉ có mức độ, nhất là sau lời tuyên bố ngày 22-1-1975 của Tổng thống Gerald Ford. Từ kết quả 7 lần Bộ Chính trị thảo luận và cho ý kiến, đến lần dự thảo thứ 8 Tổ trung tâm dự kiến ba phương án. Phương án 1: Tổng tiến công thực hiện đòn quân sự tiêu diệt địch ở tầm chiến lược đi trước một bước nhằm tạo điều kiện và tích cực thúc đẩy nhanh chóng cuộc nổi dậy của nhân dân các thành phố trung tâm, phối hợp tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi; Phương án 2: Tổng công kích-tổng khởi nghĩa song song, tập trung lực lượng chủ yếu vào hai trọng điểm: Phương án 3: a) Sài Gòn – miền Đông Nam Bộ và b) Trị Thiên – Quảng Đà; Phương án 3): Nổi dậy của quần chúng ở các thành phố trọng điểm đi trước một bước; kịp thời phát động tổng khởi nghĩa kết hợp với tổng công kích, giành thắng lợi ở hai trọng điểm chiến lược là Sài Gòn và Huế – Đà Nẵng.

Từ ngày 18-12-1974 đến 2-1-1975, Bộ Chính trị họp nhằm xem xét lần cuối bản dự thảo kế hoạch chiến lược. Dự thảo lần này không những đã được bổ sung một số điểm, điều chỉnh một số chỉ tiêu mà còn được chỉ huy các chiến trường nghiên cứu, góp ý kiến. Cuối cùng, bản dự thảo nhan đề “Kế hoạch chiến lược sắp tới” được Bộ Chính trị chính thức thông qua. Quyết tâm chiến lược trong kế hoạch được thể hiện thành hai bước, mỗi bước đều có chỉ tiêu giành thắng lợi cụ thể. Bước 1-năm 1975: Mở nhiều đợt tiến công và nổi dậy, làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện cho năm 1976; hướng tiến công chiến lược đầu tiên là Tây Nguyên, cụ thể là Nam Tây Nguyên; bước 2 - năm 1976: Tổng tiến công và nổi dậy, đánh chiếm Sài Gòn, giành toàn thắng.

Khi thảo luận và thông qua dự thảo kế hoạch lần cuối, Bộ Chính trị nhận định: Cả năm 1975 tiến công quân sự mạnh, tạo nên phong trào chính trị, thúc đẩy thời cơ,… có thể tạo ra thời cơ mới với nhiều thuận lợi mới, thậm chí có thể tạo ra thời cơ phát triển đột biến mà ta chưa lường hết được. Thời cơ lớn tạo ra một ngày bằng 20 năm, nếu bỏ lỡ thời cơ là có tội với dân tộc. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Do đó, bên cạnh kế hoạch hai bước trên đây (kế hoạch cơ bản), Tổng hành dinh còn xây dựng một kế hoạch thời cơ, giải phóng miền Nam sớm hơn hai năm.

Bắt đầu chiến dịch Tây Nguyên, đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột (từ 10 đến 11-3-1975) là đòn rất hiểm tạo ra bước ngoặt chiến lược ngay trong trận đánh đầu tiên và mở cửa đột phá cho toàn bộ cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975. Chỉ một ngày sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, Tổng hành dinh đã dự kiến địch có thể rút khỏi Tây Nguyên. Trong bức điện ngày 13-3 gửi Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, Quân uỷ Trung ương dự kiến: Nếu số lớn quân địch bị diệt ở Buôn Ma Thuột, một số quận lỵ khác bị mất, đường 19 bị cắt thì lực lượng còn lại ở Tây Nguyên sẽ cụm lại ở Plei-cu, nhưng cũng có thể địch bỏ Tây Nguyên, thực hành cuộc rút lui chiến lược. Và thực tế chứng minh Tổng hành dinh đã phán đoán đúng. Từ kết quả của Chiến dịch Tây Nguyên, Tổng hành dinh khẳng định: Thời cơ chiến lược lớn đã đến. Nếu trong cuộc họp tuần trước, Bộ Chính trị còn thận trọng nhận định rằng có khả năng giải phóng miền Nam sớm hơn dự kiến thì trong cuộc họp ngày 18-3 Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc tổng tiến công chiến lược, quyết tâm hoàn thành kế hoạch 2 năm (1975-1976) ngay trong năm 1975 và xác định hướng tiến công chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Trước mắt nhanh chóng tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch trong vùng chiến thuật 1, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi, giải phóng Huế – Đà Nẵng. Một tuần sau, với chủ trương không để địch co cụm về Đà Nẵng, trong cuộc họp ngày 24-3, Bộ Chính trị quyết định: Nắm vững thời cơ chiến lược mới đã xuất hiện, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào phương hướng chủ yếu, hoạt động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp dự kiến, không kịp trở tay, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.

Kế hoạch giải phóng Trị Thiên - Đà Nẵng được Thường trực Quân ủy thông qua ngày 26-3 và do thời gian hết sức khẩn trương nên giao cho Bộ Tổng tham mưu trực tiếp tổ chức – chỉ huy. Trước đó một ngày ta đã giải phóng Huế – Trị Thiên, cắt đứt đường số 1, từ hướng bắc uy hiếp hơn 10 vạn quân địch đang co cụm ở Đà Nẵng. Quân đoàn 2 và Quân khu 5 nhanh chóng triển khai lực lượng tiến công vào Đà Nẵng từ nhiều hướng. 15 giờ ngày 29-3, giải phóng Đà Nẵng, hoàn thành xuất sắc đòn tiến công chiến lược thứ hai. Ngay sau đó, Quân khu 5 và hải quân nhận lệnh giải phóng quần đảo Trường Sa.

Trước tình hình chuyển biến rất nhanh, ngày 31-3, Bộ Chính trị họp và nhận định: Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ chiến lược để tiến hành cuộc tổng công kích – tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, quyết tâm thực hiện tổng công kích – tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng tư, không để chậm.

Ngày 5-4, Bộ Tư lệnh cánh quân duyên hải hình thành và khẩn trương chỉ đạo, chỉ huy tác chiến dọc vùng duyên hải từ Đà Nẵng trở vào. Theo lệnh của Tổng hành dinh, cánh quân này không chỉ đánh địch mà đi, mở đường mà tiến mà còn phải có mặt ở khu vực tập kết để tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn đúng thời gian quy định.

Ngày 17-4, khi thông qua phương hướng kế hoạch chiến dịch giải phóng Sài Gòn (mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh), Bộ Chính trị nhấn mạnh: Kế hoạch tiến công toàn diện cần bảo đảm một khi đã phát động thì phải tiến công thật nhanh và liên tục, dồn dập đến toàn thắng. Vừa phát động tiến công ở ngoại vi, vừa phải có lực lượng sẵn sàng nắm thời cơ từ nhiều hướng thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn, thực hiện từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy… Thần tốc, táo bạo là ở chỗ đó. Đồng thời cần dự kiến và chuẩn bị đối phó với tình huống cuộc chiến tranh có thể kéo dài một thời gian.

Ngày 22-4, kế hoạch tác chiến giải phóng Sài Gòn được Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức phê duyệt. Chiến dịch bắt đầu từ 17 giờ ngày 26-4. Bốn ngày sau, đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4 quân ta hoàn toàn làm chủ thành phố, sau đó, tiếp tục phát triển thế tiến công giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trải qua ba đòn chiến lược chủ yếu (Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, Sài Gòn) diễn ra trong 55 ngày đêm, kế hoạch Tổng tiến công chiến lược giải phóng miền Nam đã trở thành hiện thực.

Bài học mấu chốt rút ra từ sự chỉ đạo của Tổng hành dinh trong những năm cuối của sự nghiệp giải phóng miền Nam là: Chỉ đạo chuẩn bị kế hoạch khẩn trương nhưng thận trọng, luôn dự kiến mọi tình huống thuận lợi và khó khăn có thể xảy ra và dự kiến phương hướng chủ động xử trí với các tình huống đó. Quá trình triển khai kế hoạch cũng là quá trình bám sát tình hình diễn biến cụ thể trên chiến trường, nhạy bén phân tích và kịp thời dự kiến xu thế phát triển của cục diện chiến tranh để chủ động và mạnh dạn bổ sung điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với thực tế chiến trường, nhằm giành thắng lợi chắc chắn nhất, lớn nhất và nhanh nhất.

TRẦN TRỌNG TRUNG