Bác Hồ với Hoàng thân Xu-pha-nu-vông tại chiến khu Việt Bắc 1949. Ảnh tư liệu

Hoàng thân Xu-pha-nu-vông là kỹ sư đầu tiên ở Đông Dương tốt nghiệp Đại học quốc gia cầu đường Pa-ri. Ông đã từng tham gia xây dựng nhiều công trình thủy lợi, giao thông trên khắp ba nước Đông Dương như cầu Xê-rê-pốc, đường 23, đập thủy điện Đa Nhim, đập nước Tri Nội, Bái Thượng. Ông đang thiết kế đập nước Đô Lương, cầu Yên Xuân thì Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam giành chính quyền về tay nhân dân.

Lúc này trên khắp đất nước Lào, nhân dân các bộ tộc Lào cũng đã đứng lên làm cuộc cách mạng đánh đuổi phát xít Nhật và thực dân Pháp xâm lược. Đứng trước phong trào đấu tranh của nhân dân ngày càng sôi sục chống bọn thực dân xâm lược, để có người đứng ra tập hợp lực lượng, Hoàng thân Phét-xa-rạt nghĩ đến Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, em ruột của mình, liền điện mời ông về nước tham gia chính quyền cách mạng. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đến Hà Nội bàn việc liên minh tương trợ giữa hai nước Việt Nam và Lào.

Ngày 12-10-1945, chính quyền trong toàn quốc Lào đã về tay nhân dân. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân, tuyên bố nước Lào độc lập. Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, trực tiếp chỉ huy liên quân Lào-Việt ở mặt trận Xa-vẵn-na-khệt, Thà-khẹt.

Ngày 21-3-1946, thực dân Pháp khởi hấn ở Thà Khẹt. Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu lan khắp toàn nước Lào. Ngày 20-1-1949, đội du kích Lát-xa-vông ra đời do ông Kay-xỏn thành lập và chỉ huy. Tiếp đó là sự ra đời của nhiều đội du kích khác như các đội Pha-ngừm, Xét-tha-thi-rát… Ngày 20-1-1950, Đại hội quốc dân toàn nước Lào quyết định thành lập Mặt trận Lào Ít-xa-la (Mặt trận Lào tự do) do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Chủ tịch và cử ra Chính phủ kháng chiến cũng do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Thủ tướng.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Nam và Lào liên tiếp giành thắng lợi. Chiến thắng quân Pháp ở Điện Biên Phủ buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 20-7-1954, công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương gồm Lào, Cam-pu-chia và Việt Nam. Ngày 6-1-1956, Mặt trận Lào Ít-xa-la họp đại hội nhằm mở rộng thành Mặt trận Lào yêu nước, nhằm tập hợp đông đảo nhân dân, mọi tổ chức yêu nước và tiến bộ, đấu tranh cho một nước Lào hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và thịnh vượng. Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, Chủ tịch Mặt trận tuyên bố chủ trương của Mặt trận là đưa nước Lào đi theo chính sách hòa bình trung lập. Mặt trận Lào yêu nước đã thu được những thắng lợi rực rỡ trong đợt tuyển cử bổ sung vào Quốc hội ngày 4-5-1958.

Trước thắng lợi ngày càng cao và uy tín ngày càng lớn của Mặt trận Lào yêu nước, đã làm cho phái hữu của Phủi-xa-na-ni-con hoang mang. Chúng vô cớ bắt giam Hoàng thân Xu-pha-nu-vông và một số cán bộ cấp cao, một số vị lãnh đạo của Pha-thét Lào. Ngày 23-5-1960, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông cùng các cán bộ lãnh đạo và cán bộ cấp cao tổ chức vượt ngục trở về căn cứ, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến.

Ngày 5-6-1962, quân và dân các bộ tộc Lào chiến đấu oanh liệt, giải phóng Nậm Thà, mở đường cho Hội nghị quốc tế về Lào họp ở Giơ-ne-vơ. Ngày 23-6-1962, Chính phủ liên hiệp lâm thời ba phái được thành lập, có bốn đại diện của Mặt trận Lào yêu nước tham gia Chính phủ, giữ một ghế Phó thủ tướng là Hoàng thân Xu-pha-nu-vông và bốn ghế bộ trưởng, thứ trưởng các bộ kinh tế, kế hoạch, thông tin tuyên truyền-du lịch và giao thông công chính.

Ngày 23-7-1962, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Lào được ký kết. Mười bốn nước trong đó có Mỹ và Thái Lan cam kết thừa nhận và tôn trọng chủ quyền, độc lập, trung lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.

Tháng 2-1970, các lực lượng vũ trang yêu nước Lào đánh thắng chiến dịch Cù Kiệt, phá tan 50 tiểu đoàn lính Vàng Pao, tiêu diệt 6.000 tên, làm suy yếu “lực lượng đặc biệt”, lực lượng chiến lược số một của quân đội tay sai Mỹ ở Lào. Ngày 6-3-1970, Mặt trận Lào yêu nước đưa ra giải pháp chính trị năm điểm về vấn đề Lào. Tháng 4-1970, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông dẫn đoàn đại biểu Lào tham dự hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương.

Những mốc son thắng lợi lịch sử của cách mạng Lào đều có công lao đóng góp to lớn của Hoàng thân Xu-pha-nu-vông. Ông cũng là người bạn thân thiết của cách mạng Việt Nam. Trong hồi ức của mình, Hoàng thân ghi lại: “Tháng 10-1945, trên đường trở về Lào, đến Huế, tôi đã được gặp các anh Nguyễn Chí Thanh, Hồ Tùng Mậu, Trần Hữu Dực… Các anh đã cho một đơn vị bộ đội theo tôi về nước. Trong những người đó, tôi vẫn còn nhớ tên các anh Lê Phùng Thới, Đoàn Thuần, Trần Văn Dĩnh, Trần Ngọc Quế… Đó là những người chiến sĩ tình nguyện đầu tiên đến giúp Lào. Tháng 11-1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại cử thêm bốn sĩ quan đặc phái qua giúp chúng tôi, đó là các anh: Lê Thiệu Huy, Nguyễn Trọng Thường, Hoàng Xuân Bình, Dương Cự Tẩm. Mặt trận Thà-khẹt vào những ngày cuối năm 1945, đầu năm 1946 vô cùng ác liệt. Quân tình nguyện Việt Nam từ Mặt trận đường số 9 đã bổ sung thêm cho chúng tôi. Liên quân Việt-Lào lúc này đã có đến 600 tay súng, nhưng giặc Pháp đông gấp đôi lại có xe bọc thép, đại bác, máy bay yểm trợ. Liên quân Lào-Việt chiến đấu rất dũng cảm. Các chiến sĩ, cán bộ Việt Nam chiến đấu và chỉ huy rất xuất sắc như các anh Nguyễn Chánh, Nguyễn Từ Quỳ… Đến ngày 21-3-1946 thì giặc Pháp đánh hủy diệt thành phố Thà Khẹt. Chúng cho máy bay ném bom xuống nhà thương, trường học, chợ búa, nơi tập trung đông dân. Chúng đã giết hại hàng nghìn người vượt sông Mê Kông tản cư qua Thái Lan. Thuyền máy của chúng tôi qua sông sau cùng, cũng bị trúng đạn. Người lái thuyền là anh Lê Thiệu Huy hy sinh. Tôi và anh Thuần, anh Quế cũng bị thương. Tôi bảo anh em còn lại hãy bơi ngay vào bờ, tránh hy sinh không cần thiết, để còn phải sống tiếp tục chiến đấu. Nhưng mọi người vẫn xúm lại băng bó, cứu chữa cho chúng tôi và không ai chịu rời thuyền. Hình ảnh sống chết có nhau đó, không bao giờ tôi quên được”.

HỮU TIẾN