Tiêu biểu cho trận tổng giao chiến đầu tiên trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến phải nói đến Thủ đô Hà Nội.

Hà Nội chia thành ba liên khu. Theo đúng kế hoạch, sau ba ngày giao chiến trên khắp thành phố và tổ chức cho đồng bào tản cư khỏi nội thành, lực lượng vũ trang các liên khu 2, 3, bắt đầu giãn dần ra cửa ô, nơi đã được xây dựng chiến lũy để ngăn chặn quân địch. Bộ đội và tự vệ liên khu 1 cũng thu hẹp phạm vi chiến đấu, rút vào khu vực cố thủ nằm tiếp giáp với thành Hà Nội.

Từ ngày 30-12, địch mở liên tiếp nhiều cuộc tiến công ra các cửa ô. Mỗi cuộc đều có xe tăng, xe bọc thép đi kèm và máy bay, pháo binh phối hợp. Vệ quốc đoàn và tự vệ súng trường, lựu đạn, dao kiếm, giáo mác, chai xăng crếp, bom ba càng, dựa vào chiến lũy, chướng ngại vật, công sự, hầm hố, lợi dụng nhà gác, mái nhà đã đánh chặn, giành giật từng quãng đường, từng ngôi nhà. Ở Khâm Thiên, Hàng Bột, Đội Cấn, địch bị thiệt hại nhiều mà vẫn không vượt qua được chiến lũy. Quân Pháp cuối cùng phải bỏ ý định đánh thẳng vào chiến luỹ mà đi vòng theo hướng khác. Thiếu sót của ta ở một số nơi là chưa tính tới trường hợp địch đi theo đường vòng.

Trận đánh ở nhà thương Vọng ác liệt nhất. Lực lượng vũ trang ta dùng bom ba càng phá xe tăng, rồi rút lên gác đánh lui nhiều đợt xung phong của địch. Địch bị loại khỏi vòng chiến hàng trăm và bị phá một số xe tăng, xe cơ giới. Phía ta, hai trung đội Vệ quốc đoàn và năm mươi tự vệ hy sinh.

Một số trận phục kích diễn ra ở Đống Đa, Hòa Mục, đường Nguyễn Công Trứ diệt từng trung đội địch. Kinh nghiệm trận ngã ba Hồng Phúc đã được vận dụng.

Cho đến ngày 25-1-1947, địch mới đẩy lực lượng liên khu 2 và liên khu 3 ra tới ngoại ô. Từ trung tâm thành phố ra tới đây chỉ khoảng 5km nhưng quân Pháp đi mất 27 ngày, với tốc độ bình quân 200 mét một ngày theo cách nhận xét của một nhà báo Pháp.

Khi bàn về trận đánh Hà Nội, nhiều người đã quên hoặc ít nói tới liên khu 2 và 3. Ở hai liên khu này, cuộc chiến đã diễn ra suốt 38 ngày đêm, trong đó có 27 ngày đánh địch trên các trục đường ra ngoại ô kết hợp với những tổ luồn vào khu vực địch đã kiểm soát thường xuyên tập kích. Nếu không có sự phối hợp này, chiến sĩ liên khu 1 khó trụ sát nách địch một thời gian dài như vậy.

Tuy nhiên, liên khu 1 vẫn là tiêu biểu nhất cho cuộc chiến đấu ở Thủ đô.

Liên khu 1 nằm kề đại bản doanh của Bộ chỉ huy Pháp giữa lòng Hà Nội giống như một cái “chốt chặn” ta thường gặp trong chiến tranh. Đây là một lực lượng những chiến sĩ quyết tử có nhiệm vụ thu hút, ngăn chặn địch, sẵn sàng hy sinh tính mệnh cho lợi ích toàn cục trong một trận đánh quan trọng. Theo kế hoạch, sẽ có một tiểu đoàn Vệ quốc quân cùng ở lại với tự vệ tại liên khu. Nhưng ngay từ những giờ đầu, tiểu đoàn này đã bị cắt làm đôi. Một đại đội ở khu vực phố Yên Phụ, không rút vào được khu vực cố thủ. Như vậy, trong liên khu 1 chỉ có hai đại đội Vệ quốc đoàn cùng với một bộ phận tự vệ chiến đấu, lực lượng vũ trang trung kiên được Thành ủy Hà Nội tổ chức sau ngày Tổng khởi nghĩa. Họ là nòng cốt cho cuộc chiến đấu của hàng nghìn tự vệ gồm những người dân thuộc mọi thành phần, lứa tuổi, phần lớn là thanh niên, lần đầu làm quen với chiến trận. Hạt nhân lãnh đạo của liên khu, với hàng vạn dân chưa kịp tản cư, là ba chục đảng viên cộng sản, cả nam lẫn nữ, được chỉ định ở lại. Điều đáng ngạc nhiên là các chiến sĩ liên khu 1, từ em nhỏ, cô gái đến anh Vệ quốc quân, ngay giờ phút đầu tiên, đã hiên ngang tiến hành trận đánh “mặt đối mặt” với kẻ thù mạnh hơn mình gấp nghìn lần.

Ngày 23-12-1964, anh Trần Quốc Hoàn và anh Lê Quang Đạo được Trung ương cử vào liên khu 1 để xem xét tình hình tại chỗ. Khi trở về, các anh báo cáo với Bác và Thường vụ: Nếu được tiếp tế đều đặn về lương thực, đạn dược, trung đoàn vẫn có thể trụ lại vượt thời gian dự định.

Tinh thần căm thù quân cướp nước, sẵn sàng hy sinh tính mệnh cho Tổ quốc đã mang lại cho các chiến sĩ sự lạc quan, bình tĩnh, sáng tạo, sớm tìm ra cách bảo vệ mình và tiêu diệt địch. Họ rút kinh nghiệm qua mỗi trận đánh. Từ chia quân khắp nơi ngăn chặn địch với công sự chiến đấu giản đơn, nhanh chóng chuyển sang chiến đấu cơ động dựa vào chiến hào, đánh địch cả trước mặt, bên sườn và phía sau. Họ biết nghi binh, nhử địch, biết tổ chức và sử dụng lực lượng dự bị. Một chiến thuật mới cùng với hình thức tổ chức thích hợp đã hình thành. Bộ đội chia thành những tổ nhỏ, dựa vào những đường hào, đường luồn trong nhà, thường xuyên di động. Họ không khi nào lộ mặt trước quân địch và luôn gieo rắc những tai hoạ bất ngờ. Một kẻ thù vô hình bao giờ cũng đáng sợ hơn một kẻ thù hữu hình. Những chai cháy, quả lựu đạn, phát súng trường, súng săn lẻ tẻ nhưng rất trúng đích, không biết xuất hiện từ đâu. Các chiến sĩ cố thủ không chịu bó hẹp phạm vi chiến đấu của mình bên trong chiến lũy. Họ thường xuyên kéo nhau đi đột kích những bộ phận quân Pháp đóng lẻ. Nhờ thông thuộc địa hình, đường ngang lối tắt, họ thoắt hiện, thoắt ẩn khiến kẻ địch thường không kịp đối phó và càng ít cơ hội chụp bắt họ. Họ được sự giúp đỡ, cổ vũ của hàng vạn đồng bào, những người chưa kịp tản cư cũng như những người quyết tâm ở lại.

Tuy vậy, không phải không có những khó khăn mới đã nảy sinh. Khi lực lượng vũ trang ta thu hẹp phạm vi chiến đấu vào khu vực cố thủ thì dân chúng ở vùng chung quanh cũng ùa vào theo, đưa số dân tại đây lên tới hàng vạn người. Số nhân khẩu đông đảo này đã nhanh chóng làm cạn nguồn lương thực dự trữ trù liệu cho năm nghìn người trong vòng ba tháng. Con đường bí mật nằm ven sông Hồng, nối liên khu với hậu phương trong đêm tối trời, đã bị địch chú ý. Không để tình hình này kéo dài. Chúng ta thống nhất với lãnh sự Trung Hoa, Anh và Mỹ thoả thuận cùng phía Pháp một thời gian ngừng bắn 24 giờ, đưa Hoa kiều, Ấn kiều và thường dân ra khỏi khu vực chiến sự. Bộ Tổng chỉ huy quyết định chỉ để lại liên khu 1 một bộ phận nhỏ của Trung đoàn Thủ Đô là 500 người, gồm những chiến sĩ chọn lọc, đại bộ phận sẽ rút ra cùng với dân trong ngày ngừng bắn. Nhưng qua ngày đó, trung đoàn báo cáo ra, vẫn còn lại 1.200 người, trong số này có 200 phụ nữ và 75 em nhỏ. Điều ta không dự kiến được là có những người đã trốn ở lại để được tiếp tục chiến đấu.

Một nhà sử học phương Tây đã viết là trong chiến tranh Việt Nam, quân viễn chinh Pháp luôn luôn đi tìm một trận đánh dàn trận, cuối cùng họ đã gặp nó ở Điện Biên Phủ. Thực ra, họ đã gặp nó ngay từ khi chiến tranh khởi đầu trên qui mô cả nước, mà lại ở ngay những thành phố đồng bằng.

Trên cố đô Thăng Long, đây là cuộc giao chiến lần thứ ba giữa ta với xâm lược Pháp. Khởi đầu cuộc chiến tranh lần này ở Sài Gòn, Hà Nội, trang bị của chúng ta so với hơn 60 năm trước1 cũng không khác bao nhiêu. Ngược lại, kẻ thù đã mạnh hơn xưa bội phần. Cầm đầu quân xâm lược ở Hà Nội không còn là một vài viên sĩ quan cấp úy, mà là một trung tướng Pháp2 có chiến tích trong thế chiến thứ hai. Về ta, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội, anh Vương Thừa Vũ, là một công nhân hỏa xa, trước cách mạng chỉ mới được học ở một trường đào tạo hạ sĩ quan. Khởi đầu trận đánh ở Hà Nội, ta chỉ có 5 tiểu đoàn Vệ quốc quân, qua 60 ngày đêm chiến đấu, lực lượng này đã lớn lên thành hai trung đoàn: Thủ ĐôThăng Long, không kể một tiểu đoàn rút ra tham gia Mặt trận Tây tiến.

Trận đánh ở Hà Nội đã trở thành biểu tượng của thời kỳ này.

Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP

-------------------------------

1 Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất. Năm 1882, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai.

2 Moóc-li-ê, tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở bắc Đông Dương.