Giặc Pháp tổ chức ngày càng nhiều những cuộc diễu binh thị uy trên các đường phố và nhiều cuộc tập trận giả chiến thuật tấn công ở các vườn hoa Hà Nội. Chúng vẫn âm mưu dùng áp lực quân sự bắt ta phải nhượng bộ từng bước, và cuối cùng phải đầu hàng, nếu không, một màn kịch xâm lăng chớp nhoáng và tàn bạo sẽ xảy ra.
Tháng 11-1946, không khí Thủ đô Hà Nội đã trở nên vô cùng căng thẳng. Giữa lúc ấy, tại ngôi nhà ở gần đầu cầu thị xã Hà Đông về phía Hà Nội, có một cuộc họp quan trọng. Sau khi phân tích tình hình, đồng chí Trường Chinh nói: “Giặc Pháp chuẩn bị gấp rút lắm, trước sau thế nào nó cũng đánh ta. Trung ương giao cho đồng chí Vương Thừa Vũ làm Khu trưởng khu XI (khu Hà Nội), tổ chức chuẩn bị sẵn sàng đề phòng chúng trở mặt gây chiến”. Tại đây, đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng đã nhấn mạnh: “Nếu giặc Pháp cố tình tấn công đánh chiếm Hà Nội, thì ta phải làm thế nào cho khéo, giữ được lực lượng để đánh lâu dài, và phải hết sức tranh thủ chuẩn bị, nhưng cũng hết sức tránh mắc mưu khiêu khích của giặc, vì để kháng chiến bùng nổ sớm là không có lợi”.
Bảy ngày sau, 19-11-1946, tại Lò Lợn, Hà Nội, trụ sở của cơ quan chỉ huy khu XI, đồng chí Lê Quảng Ba, nguyên chỉ huy trưởng của khu, chính thức bàn giao nhiệm vụ. Các cán bộ, chiến sĩ đứng trước quốc kỳ màu đỏ chói lọi nghiêm trang làm lễ chào cờ, đọc mười lời thề danh dự. Những tiếng hô “
Xin thề!” thốt ra từ đáy lòng các chiến sĩ, những cánh tay rắn chắc, bàn tay nắm chặt nhất loạt giơ lên: “…
thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí…”. Lòng mọi người sôi sục căm thù khi nghĩ tới một ngày nào đó, giặc Pháp man rợ sẽ nổ súng đánh úp Chính phủ, quân đội và nhân dân ta. Bom đạn của chúng sẽ trút xuống phố xá, làng mạc yên lành. Hà Nội, khói lửa sẽ nghi ngút bốc lên rực trời. Cảnh tàn khốc sẽ diễn ra…
Cơ quan lãnh đạo của Hà Nội được kiện toàn, các tầng lớp quần chúng nhân dân đoàn kết gắn bó xung quanh Đảng, Chính phủ và Bác Hồ, tin tưởng vô bờ bến vào Đảng và Bác. Trung ương trực tiếp chỉ đạo, hằng ngày, hằng giờ chăm lo tới tình hình Hà Nội. Một chỉ thị phát ra, muôn người như một, nhất tề hưởng ứng. Chúng ta kiên trì hòa bình nhưng sẵn sàng đánh trả lại, nếu giặc Pháp cố tình nổ súng hòng cướp đoạt Thủ đô của ta, xâm chiếm Tổ quốc chúng ta. |
Nhưng không! Hà Nội nhất định không chịu khoanh tay đợi giờ chết. Thủ đô Hà Nội sẽ đứng lên! Cả nước sẽ đứng lên! Quyết không cam tâm chịu làm thân trâu ngựa. Hà Nội nhất định thắng!
Mỗi người dân Hà Nội đều sẵn có trong mình một dòng máu anh hùng: “Đánh giặc cứu nước!”. Giặc Pháp càng lấn tới, nhân dân Hà Nội càng căm thù sôi sục.
Hằng ngày, nhân dân các khu phố kéo đến gặp cơ quan chính quyền, gặp Bộ chỉ huy khu tình nguyện xin đi đánh giặc. Người nào cũng biểu lộ ý chí sắt đá của mình. “Giặc Pháp lấn át ta quá lắm, không chịu được nữa rồi. Trước sau thế nào nó cũng đánh mình. Đánh! Nhất định ta phải đánh!”. Đó là lời nói của một cụ già đã ngoại 60 tuổi, khi cụ đến xin chính quyền cho đi đánh giặc. Ở Hà Nội, không riêng gì người lớn mà cả các em nhỏ cũng rất căm thù hành động hung bạo của quân cướp nước.
Em Minh, 15 tuổi, cũng như trăm ngàn em bé khác, sẵn có trong người dòng máu của Trần Quốc Toản, trước cảnh Tổ quốc lâm nguy đã nhất quyết xin gia nhập đội ngũ chiến đấu. Khi được vào tự vệ, Minh sung sướng tìm đến tâm tình với đồng chí Trần Độ: “Cậu ạ, cháu được vào tự vệ khu phố rồi. Cháu có hai quả lựu đạn và một con dao găm. Bọn Tây gặp cháu mà sinh sự là cháu choảng liền”. Thật đáng tự hào, mặc dù trang thiết bị, kỹ thuật quân sự của ta còn rất thô sơ, nhưng từ em bé đến ông già, với tinh thần yêu nước rất cao chẳng ai sợ giặc Pháp.
Toàn dân một lòng nhất định không chịu làm nô lệ. Giữa lúc nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lược sắp nổ ra ngày càng rõ rệt, lòng căm thù của nhân dân Hà Nội đối với giặc Pháp ngày càng sôi sục thì Đảng ủy mặt trận Hà Nội được thành lập gồm đồng chí Nguyễn Văn Trân (Bí thư) và các đồng chí Lê Hoàng, Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo, Nguyễn Tài, Ngô Ngọc Du (Ủy viên). Đồng chí Trần Quốc Hoàn hồi đó là Phó bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ được Trung ương cử về làm phái viên chỉ đạo và trực tiếp tham gia Đảng ủy mặt trận Hà Nội. Cùng lúc ấy, Ủy ban bảo vệ thành phố cũng được thành lập gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Trân (Chủ tịch), Vương Thừa Vũ (Phó chủ tịch kiêm chỉ huy trưởng khu XI), Lê Hữu Qua (công an)… Cơ quan giúp Bộ chỉ huy có đồng chí Khánh làm tham mưu phó, đồng chí Trương Công Cẩn làm chủ nhiệm chính trị và một số đồng chí khác.
Cơ quan lãnh đạo của Hà Nội được kiện toàn, các tầng lớp quần chúng nhân dân đoàn kết gắn bó xung quanh Đảng, Chính phủ và Bác Hồ, tin tưởng vô bờ bến vào Đảng và Bác. Trung ương trực tiếp chỉ đạo, hằng ngày, hằng giờ chăm lo tới tình hình Hà Nội. Một chỉ thị phát ra, muôn người như một, nhất tề hưởng ứng. Chúng ta kiên trì hòa bình nhưng sẵn sàng đánh trả lại, nếu giặc Pháp cố tình nổ súng hòng cướp đoạt Thủ đô của ta, xâm chiếm Tổ quốc chúng ta.
Trong những ngày căng thẳng ấy, Đảng ủy-Ủy ban và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội làm việc suốt ngày, suốt đêm với tinh thần khẩn trương để tránh bị động lúng túng. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân lăn lộn với quần chúng, tổ chức các đoàn thể, giáo dục, vận động nhân dân sẵn sàng kháng chiến. Mỗi người một việc mải mê quên ăn, quên ngủ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy và đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng trực tiếp tới thực địa duyệt những ý định chuẩn bị chiến đấu tự vệ của Bộ chỉ huy mặt trận.
Được Trung ương trực tiếp giúp đỡ ý kiến, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội đi đến nhất trí là chuẩn bị làm sao để khi địch nổ súng gây chiến, ta có thể nhanh chóng quật trả lại để giành chủ động tiêu diệt một bộ phận địch, rồi thu quân để có lực lượng trong đánh ra, ngoài đánh vào, giằng co như giàn gai mây để giam chân địch. Bố trí lực lượng để lại trong lòng địch, hồi đó ta gọi là thuật "trùng độc chiến". Có lực lượng ta ở bên trong, thì địch không rảnh tay đánh thúc ra hậu phương ta. Ngược lại, có lực lượng bên ngoài thì địch cũng không rảnh tay tiêu diệt lực lượng bên trong của ta. |
Cứ sau ba ngày, Bộ chỉ huy mặt trận báo cáo tổng hợp tình hình với Bộ Tổng chỉ huy một lần. Đồng chí Tổng chỉ huy luôn luôn nhắc nhở: "Nếu giặc Pháp cố tình đánh chiếm Hà Nội, thì nhiệm vụ mặt trận Hà Nội là phải chiến đấu giam chân địch tại Hà Nội một thời gian nhất định để hậu phương ta kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, phải tiêu hao địch, hết sức giữ gìn lực lượng mình để còn chiến đấu lâu dài, thực hiện phương châm chiến lược: Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến".
Sau mỗi lần nhận chỉ thị trực tiếp của đồng chí Tổng chỉ huy, các đồng chí trong Bộ chỉ huy Hà Nội người nào cũng tăng thêm tin tưởng, quyết tâm càng thêm vững chắc nhất là tinh thần làm việc cụ thể, sâu sát của các đồng chí cấp trên đã nhắc nhở những cán bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội càng phải đề cao trách nhiệm hơn nữa.
Được Trung ương trực tiếp giúp đỡ ý kiến, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội đi đến nhất trí là chuẩn bị làm sao để khi địch nổ súng gây chiến, ta có thể nhanh chóng quật trả lại để giành chủ động tiêu diệt một bộ phận địch, rồi thu quân để có lực lượng trong đánh ra, ngoài đánh vào, giằng co như giàn gai mây để giam chân địch. Bố trí lực lượng để lại trong lòng địch, hồi đó ta gọi là thuật "trùng độc chiến". Có lực lượng ta ở bên trong, thì địch không rảnh tay đánh thúc ra hậu phương ta. Ngược lại, có lực lượng bên ngoài thì địch cũng không rảnh tay tiêu diệt lực lượng bên trong của ta. Vấn đề chia liên khu cũng được bàn bạc rất sôi nổi. Để liên khu như khu hành chính hiện thời hay chia lại? Để như khu hành chính thì liên khu I rộng lên tới đường Cổ Ngư(1), Yên Phụ.
Chia lại cũng có ba ý kiến khác nhau. Một là chia cắt ngang từ Tây sang Đông làm 3 liên khu. Hai là chia dọc từ Nam lên Bắc, lấy đường xe điện và xe hỏa phân chia làm ba. Để như khu hành chính và hai cách chia như trên đều không thực hiện được nhiệm vụ giam chân địch, không phá được ý định tốc quyết, tốc thắng của địch, không thực hiện được trong đánh ra, ngoài đánh vào, giằng co phân tán lực lượng địch. Cuối cùng chỉ có cách chia thứ ba là được nhiều cán bộ đồng ý và biến thành quyết định của Ủy ban bảo vệ thành phố và Bộ chỉ huy mặt trận.
Liên khu I khi nổ súng, vẫn giữ như khu hành chính cũ là phía Nam và Tây Nam theo đường Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi và đường Cột Cờ(2), phía Tây Bắc từ đường Cổ Ngư tới Yên Phụ. Phía Bắc và Đông Bắc là dọc sông Hồng từ Yên Phụ đến Nhà hát Lớn. Sau 3 ngày chiến đấu tiêu hao địch, Liên khu I thu hẹp lại. Giới tuyến phía Nam dọc theo đường phố Hàng Thùng, Cầu Gỗ, Hàng Gai, Hàng Bông; phía Tây theo đại lộ Phùng Hưng; phía Bắc và Đông Bắc theo đường xe lửa tới cầu Long Biên, ven theo sông Hồng trở về Lò Sũ. Khu này dân cư đông đúc, nhà cửa liền nhau san sát. Bộ binh theo đường đục tường từ nhà nọ sang nhà kia để cơ động, có thể liên hoàn tác chiến hỗ trợ lẫn nhau và có thể len lỏi quật những đòn bất ngờ vào sau lưng địch.
Ở đây đường sá lại chật hẹp, ngang dọc phức tạp, cơ giới khó vận chuyển, tiện cho ta bố trí chướng ngại ngăn chặn xe tăng địch. Độ chênh mặt đất cao hơn các khu khác cũng có tác dụng quan sát và khống chế rộng. Do đó hình thành hạt nhân bên trong tổ chức phòng thủ kiên cố để thu hút lực lượng địch rất tốt. Sau khi chiến đấu ba ngày tự vệ tại những khu vực của mình, tiểu đoàn 101 rút vào Liên khu I thực hiện ý định "trùng độc chiến", cố gắng chiến đấu trong lòng địch 15 ngày để phối hợp với ngoại tuyến. Về quân sự do đồng chí Nguyễn Văn Triệu và đồng chí Toàn Vinh phụ trách. Về Đảng và chính quyền do đồng chí Lê Trung Toản và đồng chí Hoàng Phương phụ trách. Căn cứ chỉ huy của tiểu đoàn đặt ở Hàng Bè.
Liên khu II, phía Tây lấy dọc phố Hàng Lọng(3), Kim Liên làm giới tuyến; phía Bắc giáp Liên khu I; phía Đông ven sông Hồng về Vĩnh Tuy; phía Nam tiếp giáp các làng mạc ngoại thành. Phần lớn khu này do bọn viên chức lớp trên và kiều dân Pháp ở, nên nhà cửa thưa, kiểu kiến trúc kiên cố và rộng rãi, có nhiều đại lộ vận chuyển chiến xa thuận lợi. Ở đây, ta có tiểu đoàn 77 và 212 phụ trách. Về quân sự có đồng chí Bùi Sinh và Quang Tuần chỉ huy. Về Đảng và chính quyền có đồng chí Đào và đồng chí Hồng Cơ phụ trách. Căn cứ chỉ huy đặt tại Chợ Hôm và trại Hàn Lân.
(Còn nữa)
Theo "Hà Nội-Bản hùng ca bất tử mùa Đông 1946"-Sách do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội tổ chức biên tập và xuất bản.
(*) Tiêu đề do Ban Biên tập đặt, trích trong sách Hà Nội sáu mươi ngày khói lửa, NXB Quân đội nhân dân; H.1964.
(1) Nay là đường Thanh Niên.
(2) Nhân dịp kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội đã quyết định đổi tên đường Cột Cờ là đường Điện Biên Phủ.
(3) Nay là đường Lê Duẩn.
Trung tướng VƯƠNG THỪA VŨ
Nguyên Khu trưởng khu XI