 |
Nụ cười dưới chân thành cổ. Ảnh: Tư liệu |
Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của quân dân Hà Nội hồi đầu Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp là một thắng lợi hết sức to lớn, vượt xa yêu cầu đặt ra. Thắng lợi đó là một thành công điển hình của nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân đánh giặc. Thành công đầu tiên chính là sự chủ động của Mặt trận Hà Nội trong việc xây dựng lực lượng, phát huy sức mạnh của toàn dân đánh giặc.
Ngay sau khi Hiệp định sơ bộ được ký kết, trong buổi nói chuyện với khu trưởng và đại đội trưởng tự vệ thành Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ký hiệp định đình chiến lần này không phải là hết chiến tranh... Trái lại hơn bao giờ hết, ta phải luôn luôn chuẩn bị để bồi dưỡng lực lượng, nâng cao tinh thần kháng chiến của toàn dân để đối phó với những việc bất ngờ bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra. Tinh thần kháng chiến, sự chuẩn bị chu đáo phải là thường trực, tiếp tục không giây phút nào ngừng”(1). Tiếp đó, ngày 15-10-1946, khi giao nhiệm vụ cho đồng chí Vương Thừa Vũ, Tổng bí thư Trường Chinh đã chỉ thị: “Ngay từ bây giờ phải nhanh chóng chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng ở tư thế chiến đấu để nếu địch trở mặt gây hấn thì ta lập tức đánh trả ngay; phải kìm chân quân địch ở Hà Nội trong một thời gian để cả nước chuyển sang chiến tranh; phải huy động sức mạnh tiềm tàng của nhân dân thành phố vào cuộc chiến đấu, đồng thời phải biết bảo toàn và bồi dưỡng lực lượng ta để đánh lâu dài...”(2).
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh, Thành ủy Hà Nội chủ trương thực hiện khẩu hiệu đại đoàn kết dân tộc, động viên mọi tầng lớp nhân dân đứng lên giữ nền độc lập và kiến quốc. Thành ủy tổ chức tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước, ý thức dân tộc, lòng căm thù quân xâm lược và chăm lo xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức các hội quần chúng cứu quốc làm hạt nhân tổ chức, tập hợp nhân dân kháng chiến. Để thu hút nhân tài gánh vác việc nước, Thành ủy mời một số nhân sĩ, trí thức, nhà tư sản dân tộc tham gia UBND thành phố. Nhiều nhân viên kỹ thuật và công chức chế độ cũ có tinh thần yêu nước, cũng tự nguyện tham gia chính quyền Thủ đô. Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập (5-1946), thu hút nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, tư sản dân tộc, chức sắc giáo hội và Hoa kiều. Mặt trận Việt Minh tự nguyện trở thành một thành viên của Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam để đoàn kết, thu hút lực lượng. Nhiều tổ chức quần chúng mới ra đời như: Tổng liên đoàn lao động, Đảng xã hội Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam... làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất trên địa bàn Hà Nội được mở rộng và củng cố thêm một bước.
Những cố gắng của Hà Nội trong xây dựng chính quyền, các tổ chức quần chúng, vận động chính trị đã thu được kết quả có ý nghĩa quyết định đến xây dựng lực lượng kháng chiến. Đông đảo nhân dân Hà Nội, trước hết là quần chúng lao động Thủ đô đã có lòng tin với chế độ mới, thiết tha với nền độc lập dân tộc vừa giành được. Họ siết chặt hàng ngũ trong khối đại đoàn kết dân tộc, tham gia xây dựng chính quyền và hăng hái chuẩn bị chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Khi kháng chiến bùng nổ, mọi tầng lớp nhân dân, già trẻ, trai gái, giàu nghèo đều nhiệt tình tham gia kháng chiến. Người đào hầm hố, người đắp chiến lũy, người ngả cây, ngả cột điện, người đi tiếp tế, người cứu thương, người hướng dẫn nhân dân tản cư... các nhà sư cũng tự tổ chức thành đơn vị vũ trang để xông ra mặt trận. Các chị em buôn thúng bán mẹt, thậm chí chị em vũ nữ, ả đào cũng đi làm cấp dưỡng, tải thương. Trung đoàn Thủ Đô là hình ảnh thu nhỏ của khối đoàn kết toàn dân kháng chiến của Hà Nội lúc bấy giờ.
Một vấn đề được Thành ủy và UBND thành phố Hà Nội đặc biệt quan tâm ngay từ khi mới giành chính quyền là xây dựng LLVT cả ở nội thành và ngoại thành. Thành ủy và UBND thành phố đã gắn nhiệm vụ xây dựng LLVT với nhiệm vụ xây dựng ngoại thành thành “vành đai đỏ”, tạo thành an toàn khu cho các cơ quan Trung ương và Xứ ủy. Trong những ngày chuẩn bị kháng chiến, ngoài lực lượng Vệ quốc đoàn, công an xung phong, Thành ủy và UBND thành phố đã trực tiếp xây dựng và lãnh đạo các LLVT Thủ đô bao gồm: Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu, Tự vệ xí nghiệp, Tự vệ Thành và DQTV ngoại thành phát triển nhanh chóng và rộng khắp. Các lực lượng DQTV của thành phố vừa trực tiếp sản xuất, vừa tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
Được sự quan tâm của Thành ủy, UBND thành phố, đồng thời có sự tham gia nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân Hà Nội, các LLVT Thủ đô đã phát triển nhanh chóng, giữ vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu giam chân địch trong thành phố, cũng như trong việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân để kháng chiến lâu dài. Không chỉ huy động được đông đảo nhân dân tham gia kháng chiến, Mặt trận Hà Nội còn tổ chức sử dụng lực lượng một cách khoa học, bảo đảm đánh địch có hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, bảo toàn phát triển lực lượng kháng chiến lâu dài. Khi kháng chiến bùng nổ, quân Pháp ở Hà Nội có 6.500 quân, trang bị hiện đại, đóng quân ở 54 vị trí xen kẽ với ta trong thành phố và đã chiếm được những vị trí quân sự, chính trị có lợi nhất, như: Thành Hà Nội, Phủ Toàn quyền, trường An-be Xa-rô, trường Bưởi, khu Đồn Thủy, sân bay Gia Lâm... Lực lượng ta có 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn (101, 77, 212, 145, 523), một đại đội cảnh vệ, 4 trung đội pháo, tổng quân số là 2.515 người, trang bị chủ yếu là súng trường và một số khẩu pháo cối.
Trước tình hình so sánh lực lượng quá chênh lệch, Bộ chỉ huy Chiến khu 11 (Mặt trận Hà Nội) chủ trương: nắm quyền chủ động tập trung lực lượng bất ngờ tập kích các vị trí quân Pháp, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận địch, sau đó tổ chức khu tác chiến dài ngày trong thành phố; đặt chướng ngại vật ngăn chặn địch đánh chiếm các phố và tỏa ra các cửa ô; kết hợp trong ngoài cùng đánh. Khu vực nội thành được chia thành ba liên khu. Liên khu 1 là khu chiến đấu hạt nhân, vừa tiêu diệt, tiêu hao địch vừa thu hút lực lượng chúng tạo thế cho Liên khu 2, Liên khu 3 đánh địch bên ngoài. Liên khu 2, Liên khu 3 đánh địch ở vòng ngoài, ngăn chặn các cuộc tiến công của địch ra ngoại ô, cùng Liên khu 1 hình thành thế trận trong ngoài cùng đánh, hỗ trợ, chi viện cho nhau để tiêu diệt, tiêu hao địch, giam chân chúng trong thành phố. Các đơn vị Vệ quốc đoàn, DQTV phối hợp chặt chẽ, phân bố lực lượng phòng thủ phù hợp với khả năng. Vệ quốc đoàn phòng thủ ở những nơi quan trọng, các LLVT Thủ đô đảm nhiệm phòng thủ ở các tiểu khu, đường phố, cơ sở, xí nghiệp…
Khi có lệnh nổ súng, các lực lượng vũ trang Hà Nội trong thế bố trí xen kẽ với địch đã nhanh chóng đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt nhiều vị trí quân Pháp chiếm giữ. Dựa vào hệ thống chướng ngại, vật cản mới dựng lên, các LLVT đã tổ chức chặn đánh nhiều cánh quân địch gây cho chúng nhiều thiệt hại. Cùng với LLVT Thủ đô, đông đảo nhân dân đã tham gia đắp chiến lũy, đào hầm hố, hào giao thông, đục tường thông nhà, ngả cây, ngả cột điện, khiêng bàn tủ… ra đường làm chướng ngại vật ngăn cản xe địch. Cả Hà Nội tiếng súng, tiếng pháo rền vang, hình thành thế trận: mỗi nhà là một pháo đài, mỗi phố là một chiến tuyến. Quân dân Hà Nội đã giành quyền chủ động và phá tung thế trận của quân Pháp, đẩy chúng vào thế bị động đối phó và giam chân chúng suốt 60 ngày đêm, thực hiện vượt mức nhiệm vụ của Trung ương giao.
Không chỉ tổ chức, phát động toàn dân đánh giặc, Mặt trận Hà Nội còn tổ chức phát động toàn dân tham gia cung cấp, tiếp tế, bảo đảm chiến đấu dài ngày trong thành phố. Từ tháng 11 năm 1946, nhiều cán bộ của Ủy ban bảo vệ thành phố, Vệ quốc đoàn, tự vệ Thành, công an xung phong đã tỏa xuống các khu phố vận động tổ chức nhân dân tích trữ lương thực, thực phẩm, thuốc men, mua sắm vũ khí… Trong một thời gian ngắn, Hà Nội đã vận động được nhiều gia đình đóng góp và tham gia tích trữ lương thực, thực phẩm khô, bông băng, thuốc men bảo đảm cho cuộc chiến đấu ở Thủ đô. Ở Liên khu 1, nhiều kho lương thực, thực phẩm được đặt kín đáo trong các ngõ hẻm, trong nhà dân, đền chùa đủ bảo đảm cho 5.000 người ăn trong 3 tháng. Ở ngoại thành, các kho lương thực đặt ở Thanh Liệt, Mễ Trì và một số điểm ven sông Nhuệ, bảo đảm tiếp tế cho nội thành một cách thuận lợi.
Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của quân dân Hà Nội đã giành thắng lợi vẻ vang. Trong cuộc chiến đấu không cân sức này, Mặt trận Hà Nội đã biết quan tâm huy động sức mạnh tiềm tàng của nhân dân để xây dựng các tổ chức quần chúng, xây dựng các lực lượng vũ trang, lực lượng tự vệ; tổ chức sử dụng lực lượng một cách khoa học bảo đảm đánh địch có hiệu quả, giam chân địch dài ngày trong thành phố; tổ chức tốt các lực lượng bảo đảm vật chất sinh hoạt, vũ khí, đạn dược, cứu chữa thương binh trong quá trình chiến đấu. Mặc dù còn những khiếm khuyết của những ngày đầu kháng chiến, song nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng của Mặt trận Hà Nội thực sự góp phần quan trọng, quyết định thắng lợi của đợt chiến đấu giam chân địch-một thành công điển hình của nghệ thuật toàn dân đánh giặc và nghệ thuật tác chiến của chiến tranh du kích ở thành phố những ngày đầu kháng chiến.
Đợt chiến đấu của quân dân Hà Nội: Thành công điển hình của nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân đánh giặc
Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của quân dân Hà Nội hồi đầu Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp là một thắng lợi hết sức to lớn, vượt xa yêu cầu đặt ra. Thắng lợi đó là một thành công điển hình của nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân đánh giặc. Thành công đầu tiên chính là sự chủ động của Mặt trận Hà Nội trong việc xây dựng lực lượng, phát huy sức mạnh của toàn dân đánh giặc.
Ngay sau khi Hiệp định sơ bộ được ký kết, trong buổi nói chuyện với khu trưởng và đại đội trưởng tự vệ thành Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ký hiệp định đình chiến lần này không phải là hết chiến tranh... Trái lại hơn bao giờ hết, ta phải luôn luôn chuẩn bị để bồi dưỡng lực lượng, nâng cao tinh thần kháng chiến của toàn dân để đối phó với những việc bất ngờ bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra. Tinh thần kháng chiến, sự chuẩn bị chu đáo phải là thường trực, tiếp tục không giây phút nào ngừng”(1). Tiếp đó, ngày 15-10-1946, khi giao nhiệm vụ cho đồng chí Vương Thừa Vũ, Tổng bí thư Trường Chinh đã chỉ thị: “Ngay từ bây giờ phải nhanh chóng chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng ở tư thế chiến đấu để nếu địch trở mặt gây hấn thì ta lập tức đánh trả ngay; phải kìm chân quân địch ở Hà Nội trong một thời gian để cả nước chuyển sang chiến tranh; phải huy động sức mạnh tiềm tàng của nhân dân thành phố vào cuộc chiến đấu, đồng thời phải biết bảo toàn và bồi dưỡng lực lượng ta để đánh lâu dài...”(2).
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh, Thành ủy Hà Nội chủ trương thực hiện khẩu hiệu đại đoàn kết dân tộc, động viên mọi tầng lớp nhân dân đứng lên giữ nền độc lập và kiến quốc. Thành ủy tổ chức tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước, ý thức dân tộc, lòng căm thù quân xâm lược và chăm lo xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức các hội quần chúng cứu quốc làm hạt nhân tổ chức, tập hợp nhân dân kháng chiến. Để thu hút nhân tài gánh vác việc nước, Thành ủy mời một số nhân sĩ, trí thức, nhà tư sản dân tộc tham gia UBND thành phố. Nhiều nhân viên kỹ thuật và công chức chế độ cũ có tinh thần yêu nước, cũng tự nguyện tham gia chính quyền Thủ đô. Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập (5-1946), thu hút nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, tư sản dân tộc, chức sắc giáo hội và Hoa kiều. Mặt trận Việt Minh tự nguyện trở thành một thành viên của Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam để đoàn kết, thu hút lực lượng. Nhiều tổ chức quần chúng mới ra đời như: Tổng liên đoàn lao động, Đảng xã hội Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam... làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất trên địa bàn Hà Nội được mở rộng và củng cố thêm một bước.
Những cố gắng của Hà Nội trong xây dựng chính quyền, các tổ chức quần chúng, vận động chính trị đã thu được kết quả có ý nghĩa quyết định đến xây dựng lực lượng kháng chiến. Đông đảo nhân dân Hà Nội, trước hết là quần chúng lao động Thủ đô đã có lòng tin với chế độ mới, thiết tha với nền độc lập dân tộc vừa giành được. Họ siết chặt hàng ngũ trong khối đại đoàn kết dân tộc, tham gia xây dựng chính quyền và hăng hái chuẩn bị chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Khi kháng chiến bùng nổ, mọi tầng lớp nhân dân, già trẻ, trai gái, giàu nghèo đều nhiệt tình tham gia kháng chiến. Người đào hầm hố, người đắp chiến lũy, người ngả cây, ngả cột điện, người đi tiếp tế, người cứu thương, người hướng dẫn nhân dân tản cư... các nhà sư cũng tự tổ chức thành đơn vị vũ trang để xông ra mặt trận. Các chị em buôn thúng bán mẹt, thậm chí chị em vũ nữ, ả đào cũng đi làm cấp dưỡng, tải thương. Trung đoàn Thủ Đô là hình ảnh thu nhỏ của khối đoàn kết toàn dân kháng chiến của Hà Nội lúc bấy giờ.
Một vấn đề được Thành ủy và UBND thành phố Hà Nội đặc biệt quan tâm ngay từ khi mới giành chính quyền là xây dựng LLVT cả ở nội thành và ngoại thành. Thành ủy và UBND thành phố đã gắn nhiệm vụ xây dựng LLVT với nhiệm vụ xây dựng ngoại thành thành “vành đai đỏ”, tạo thành an toàn khu cho các cơ quan Trung ương và Xứ ủy. Trong những ngày chuẩn bị kháng chiến, ngoài lực lượng Vệ quốc đoàn, công an xung phong, Thành ủy và UBND thành phố đã trực tiếp xây dựng và lãnh đạo các LLVT Thủ đô bao gồm: Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu, Tự vệ xí nghiệp, Tự vệ Thành và DQTV ngoại thành phát triển nhanh chóng và rộng khắp. Các lực lượng DQTV của thành phố vừa trực tiếp sản xuất, vừa tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
Được sự quan tâm của Thành ủy, UBND thành phố, đồng thời có sự tham gia nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân Hà Nội, các LLVT Thủ đô đã phát triển nhanh chóng, giữ vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu giam chân địch trong thành phố, cũng như trong việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân để kháng chiến lâu dài. Không chỉ huy động được đông đảo nhân dân tham gia kháng chiến, Mặt trận Hà Nội còn tổ chức sử dụng lực lượng một cách khoa học, bảo đảm đánh địch có hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, bảo toàn phát triển lực lượng kháng chiến lâu dài. Khi kháng chiến bùng nổ, quân Pháp ở Hà Nội có 6.500 quân, trang bị hiện đại, đóng quân ở 54 vị trí xen kẽ với ta trong thành phố và đã chiếm được những vị trí quân sự, chính trị có lợi nhất, như: Thành Hà Nội, Phủ Toàn quyền, trường An-be Xa-rô, trường Bưởi, khu Đồn Thủy, sân bay Gia Lâm... Lực lượng ta có 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn (101, 77, 212, 145, 523), một đại đội cảnh vệ, 4 trung đội pháo, tổng quân số là 2.515 người, trang bị chủ yếu là súng trường và một số khẩu pháo cối.
Trước tình hình so sánh lực lượng quá chênh lệch, Bộ chỉ huy Chiến khu 11 (Mặt trận Hà Nội) chủ trương: nắm quyền chủ động tập trung lực lượng bất ngờ tập kích các vị trí quân Pháp, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận địch, sau đó tổ chức khu tác chiến dài ngày trong thành phố; đặt chướng ngại vật ngăn chặn địch đánh chiếm các phố và tỏa ra các cửa ô; kết hợp trong ngoài cùng đánh. Khu vực nội thành được chia thành ba liên khu. Liên khu 1 là khu chiến đấu hạt nhân, vừa tiêu diệt, tiêu hao địch vừa thu hút lực lượng chúng tạo thế cho Liên khu 2, Liên khu 3 đánh địch bên ngoài. Liên khu 2, Liên khu 3 đánh địch ở vòng ngoài, ngăn chặn các cuộc tiến công của địch ra ngoại ô, cùng Liên khu 1 hình thành thế trận trong ngoài cùng đánh, hỗ trợ, chi viện cho nhau để tiêu diệt, tiêu hao địch, giam chân chúng trong thành phố. Các đơn vị Vệ quốc đoàn, DQTV phối hợp chặt chẽ, phân bố lực lượng phòng thủ phù hợp với khả năng. Vệ quốc đoàn phòng thủ ở những nơi quan trọng, các LLVT Thủ đô đảm nhiệm phòng thủ ở các tiểu khu, đường phố, cơ sở, xí nghiệp…
Khi có lệnh nổ súng, các lực lượng vũ trang Hà Nội trong thế bố trí xen kẽ với địch đã nhanh chóng đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt nhiều vị trí quân Pháp chiếm giữ. Dựa vào hệ thống chướng ngại, vật cản mới dựng lên, các LLVT đã tổ chức chặn đánh nhiều cánh quân địch gây cho chúng nhiều thiệt hại. Cùng với LLVT Thủ đô, đông đảo nhân dân đã tham gia đắp chiến lũy, đào hầm hố, hào giao thông, đục tường thông nhà, ngả cây, ngả cột điện, khiêng bàn tủ… ra đường làm chướng ngại vật ngăn cản xe địch. Cả Hà Nội tiếng súng, tiếng pháo rền vang, hình thành thế trận: mỗi nhà là một pháo đài, mỗi phố là một chiến tuyến. Quân dân Hà Nội đã giành quyền chủ động và phá tung thế trận của quân Pháp, đẩy chúng vào thế bị động đối phó và giam chân chúng suốt 60 ngày đêm, thực hiện vượt mức nhiệm vụ của Trung ương giao.
Không chỉ tổ chức, phát động toàn dân đánh giặc, Mặt trận Hà Nội còn tổ chức phát động toàn dân tham gia cung cấp, tiếp tế, bảo đảm chiến đấu dài ngày trong thành phố. Từ tháng 11 năm 1946, nhiều cán bộ của Ủy ban bảo vệ thành phố, Vệ quốc đoàn, tự vệ Thành, công an xung phong đã tỏa xuống các khu phố vận động tổ chức nhân dân tích trữ lương thực, thực phẩm, thuốc men, mua sắm vũ khí… Trong một thời gian ngắn, Hà Nội đã vận động được nhiều gia đình đóng góp và tham gia tích trữ lương thực, thực phẩm khô, bông băng, thuốc men bảo đảm cho cuộc chiến đấu ở Thủ đô. Ở Liên khu 1, nhiều kho lương thực, thực phẩm được đặt kín đáo trong các ngõ hẻm, trong nhà dân, đền chùa đủ bảo đảm cho 5.000 người ăn trong 3 tháng. Ở ngoại thành, các kho lương thực đặt ở Thanh Liệt, Mễ Trì và một số điểm ven sông Nhuệ, bảo đảm tiếp tế cho nội thành một cách thuận lợi.
Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của quân dân Hà Nội đã giành thắng lợi vẻ vang. Trong cuộc chiến đấu không cân sức này, Mặt trận Hà Nội đã biết quan tâm huy động sức mạnh tiềm tàng của nhân dân để xây dựng các tổ chức quần chúng, xây dựng các lực lượng vũ trang, lực lượng tự vệ; tổ chức sử dụng lực lượng một cách khoa học bảo đảm đánh địch có hiệu quả, giam chân địch dài ngày trong thành phố; tổ chức tốt các lực lượng bảo đảm vật chất sinh hoạt, vũ khí, đạn dược, cứu chữa thương binh trong quá trình chiến đấu. Mặc dù còn những khiếm khuyết của những ngày đầu kháng chiến, song nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng của Mặt trận Hà Nội thực sự góp phần quan trọng, quyết định thắng lợi của đợt chiến đấu giam chân địch-một thành công điển hình của nghệ thuật toàn dân đánh giặc và nghệ thuật tác chiến của chiến tranh du kích ở thành phố những ngày đầu kháng chiến.
Đại tá PHẠM HỮU THẮNG(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)
1. Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, tr.400.
2. Vương Thừa Vũ, Trưởng thành trong chiến đấu. Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, HN.1979, tr.76.