Một mốc lịch sử sai dẫn đến nhiều sự vô lý
Báo Quân khu một số 2181, kỳ 1, tháng 10-2006, trang 5 có đăng bài viết Bài hát “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” ra đời như thế nào? của tác giả Phạm Trọng chính, khổ 2 có câu: “Ngày 2-9-1969, tin Bác Hồ vĩnh viễn ra đi được công bố, cả thế giới tiếc thương Bác”. Tác giả bài báo đã có sự nhầm lẫn lớn khi viết như vậy. Ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đúng là ngày 2-9-1969, song tác giả đã quên hai chi tiết quan trong liên quan đến điều này. Thứ nhất, ngày 2-9-1969, Đảng và Nhà nước ta chưa công bố ngay tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, mấy ngày sau, chúng ta mới công bố tin này. Thứ hai, sau ngày 2-9-1969, chúng ta mới công bố tin Bác mất và công bố ngày Bác mất là 3-9-1969. Phải đến thời kỳ đổi mới sau này, Đảng và Nhà nước ta mới công bố lại ngày Bác mất là ngày 2-9-1969. Sỹ Cường
Không phải là “phó thủ” mà là “Phó thự”
Tạp chí Xưa và Nay số 269, tháng 10-2006, trang 22 có đăng một số sắc lệnh liên quan đến tướng Nguyễn Sơn, có những tư liệu gốc rất quý. Tuy nhiên, có lẽ văn bản gốc các sắc lệnh không còn rõ nét nên khi dịch ra có chỗ chưa được chuẩn. Thứ nhất, cuối hai sắc lệnh đầu có ghi chữ Phó thủ. Qua tìm hiểu, tôi được biết, thực ra đó là chữ Phó thự , chỉ người ký phụ vào sắc lệnh (thự là ký, phó là phụ). Thứ hai, cuối Sắc lệnh số 183 có lẽ chức danh của cụ Huỳnh Thúc Kháng và người Phó thự Võ Nguyên Giáp phải là Quyền Chủ tịch Chính phủ và Chủ tịch Quân sự uỷ viên Hội-Quyền Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Rất có thể trong văn bản gốc chữ Quyền viết tắt là Q đã bị mờ không còn nhìn thấy rõ. Tra lại Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 3, chúng ta sẽ thấy trước ngày lên đường thăm nước Pháp (31-5-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký các sắc lệnh uỷ quyền cho cụ Huỳnh Thúc Kháng là Quyền Chủ tịch Chính phủ và phê chuẩn uỷ nhiệm Chủ tịch Quân sự uỷ viên Hội Võ Nguyên Giáp làm Quyền Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay Bộ trưởng Phan Anh trong thời gian sang Pháp. Phan Nguyên
Một số chuyên đề nhiều sai sót
- Chuyên đề “An ninh thế giới” của báo Công an nhân dân, số kỷ niệm 10 năm An ninh thế giới phát hành số đầu tiên (19-8-1996 – 19-8-2006), có những điểm không chính xác sau: Thứ nhất, trong bài “Cuộc đối mặt ngày 17-6-1945 tại núi Nùng vườn Bách thảo (Hà Nội)” (tác giả còn mở ngoặc đơn có tài liệu gọi là Long Đỗ) tác giả Lê Tuấn đã nhầm lẫn núi Nùng (Long Đỗ là Rốn Rồng) được các nhà sử học, khảo cổ học xác định vị trí ở trong thành Hà Nội), nay núi không còn, chỉ còn vết tích, còn núi ở vườn Bách thảo mà tác giả nhắc đến là núi Sưa. Gọi là núi Sưa vì núi này có nhiều cây Sưa mọc.
Thứ hai, trong bài “Người cán bộ Quân đội Việt Nam bên cạnh Hoàng thân Xuphanuvông” của Minh San và Hữu Anh, giới thiệu về Lê Thiệu Huy, có khá nhiều sai lầm đáng tiếc. Tác giả viết rằng anh Huy học giỏi, là “Thần đồng Đông Dương”(!), học lực có thể nói là quá siêu phàm nên đã đậu “3 bằng cử nhân hạng ưu tại Paris lúc chưa đầy 20 tuổi”(!). Sự thật thì, theo chính gia đình anh cho biết, anh Huy không sang Pháp học, mà học tại trường Đại học Đông Dương ở Hà Nội. Và không phải là anh đậu 3 bằng cử nhân, thời đó đại học theo chế độ cấp chứng chỉ, sinh viên có đủ số chứng chỉ bắt buộc thì được xem là đậu. Anh Huy học Trường Cao đẳng khoa học (thuộc trường Đại học Đông Dương) đã có 3 chứng chỉ nên có thể xem là có bằng Cử nhân.
Thứ ba, cũng trong bài báo này, các tác giả ghi nhầm tên giáo sư Pháp gốc Do Thái, dạy toán rất giỏi và có viết nhiều sách giáo khoa về môn Toán được sử dụng rộng rãi, học sinh thời đó không ai không sử dụng-là Brachet thành tên Burcher. Các tác giả còn nhầm cả tên viên Toàn quyền Đông Dương thời đó là Jean Decoux với tướng De Gaulle, là người đứng đầu phái kháng chiến và đã có công lớn giải phóng nước Pháp, sau đó có thời kỳ làm Tổng thống, rồi Thủ tướng nước Pháp. Câu chuyện vì anh Huy học giỏi mà Toàn quyền Đông Dương đã mời thân mẫu anh ra Hà Nội, đến Phủ Toàn quyền để được gặp mặt là chuyện không có thật.
Về quan hệ giữa Hoàng thân Xuphanuvông với Lê Thiệu Huy, sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Huy được cử làm bảo vệ cho Hoàng thân và với tư cách đó đã có lúc là Tham mưu trưởng Liên quân Việt-Lào, rồi hy sinh trong khi làm nhiệm vụ trên sông Mê Kông.
Cũng cần nói thêm rằng Hoàng Xuân Bình là bạn thân của Lê Thiệu Huy, hai người có bà con bên ngoại với nhau, và cùng là sinh viên Đại học Đông Dương trước 1945. Hoàng Xuân Bình không phải là giáo sư, có thời kỳ ngắn được chính quyền cách mạng giao nhiệm vụ làm vệ sĩ cho Bảo Đại, đã đưa Bảo Đại ra Hà Nội nhận chức Cố vấn Chính phủ theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi kháng chiến bùng nổ, ông hoạt động trong vùng tạm bị chiếm ở miền Nam, rồi bị Pháp bắt giam giữ một thời gian dài, sau ngày giải phóng mới ra tù, hiện nay sống ở miền Nam. Đinh Hương Sơn
Vài lỗi nhỏ trong một cuốn sách quý
Đại thắng mùa xuân 1975-Bản lính và trí tuệ Việt Nam - kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 30 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, do Nxb QĐND ấn hành năm 2006, là một cuốn sách quý. Tuy nhiên ở một vài chỗ còn có những lỗi nhỏ. Trang 149 có ghi: “…ngay sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, ngày 27 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Quân đoàn 3”. Trang 234 lại ghi: “Quân đoàn 3 (thành lập) ngày 26-4-1975” . Trong khi đó, trang 208 lại ghi: “Ngày 26 tháng 3, được Bộ Chính trị đồng ý, Quân uỷ Trung ương đã quyết định thành lập Binh đoàn Tây Nguyên (Quân đoàn 3)…”. Thực ra ngày 26-3 là ngày Trung ương ra quyết định thành lập Quân đoàn 3. |
- Trang 167 có ghi “Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được ta chính thức thành lập ngày 20 tháng 1 năm 1960”. Trang 234 có ghi “Quân đoàn 1 thành lập ngày 23-10-1973”. Thực ra, ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam là ngày 20-12-1960; và Quân đoàn 1 thành lập vào ngày 24-10-1973. Đây có lẽ là lỗi sửa mo rát.
Trang 243 có ghi: “…ngày 15 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, …”. Câu trên có hai điểm chưa chuẩn xác. Một là, Chiến dịch Hồ Chí Minh đã được Bộ Chính trị quyết định mở từ trước, là một trong 3 đòn chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Ngày 8-4-1975, Bộ Chính trị đã có quyết định thành lập Bộ tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Ngày 14-4-1975 (chứ không phải là ngày 15), Bộ Chính trị thông qua nghị quyết đồng ý với đề xuất của Bộ tư lệnh chiến dịch: “Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định được mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh”. Thứ hai, Chiến dịch Hồ Chí Minh mục tiêu là giải phóng Sài Gòn-Gia Định, trung tâm đầu não của nguỵ quyền, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam. Phan Cường
Một số lỗi nhỏ trong một bài báo
Tạp chí Tem-của Hội Tem Việt Nam, số 81, tháng 11-2006, có đăng bài viết “Ngày Toàn quốc kháng chiến năm xưa” của tác giả Quang Anh ở Hội Tem Phú Yên. Dù phần lịch sử chỉ viết sơ lược làm nền song lại có một số lỗi khá cơ bản về chi tiết lịch sử.
Một là, ngay câu đầu tiên của bài báo: “Ngày 19-12-1946, ngày mở đầu Cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng nhất định thắng lợi…”. Thiếu mất hai từ quan trọng là “Toàn quốc”, tác giả đã làm sai lệch mốc thời gian của “cuộc kháng chiến trường kỳ” chống thực dân Pháp của dân tộc ta là mở đầu từ 23-9-1945. Ngày 19-12-1946 là mốc mở đầu của cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc. Đây cũng là lỗi, khi ở câu cuối bài viết, tác giả ghi: “Cuộc chiến đấu của dân tộc ta mở đầu 20 giờ ngày 19-12-1946 chống thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ xâm lược… và kết thúc 10 giờ 30-4-1975…”. Mốc mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta không phải là từ 19-12-1946 mà là từ 23-9-1945. Mốc kết thúc là 21-7-1954 (đủ thời gian 9 năm). Các mốc thời gian này từ lâu đã được các nhà nghiên cứu, tổng kết thống nhất và đã được Bộ Chính trị khẳng định trong cuốn “Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp-Thắng lợi và bài học”, (Nxb CTQG, Hà Nội, 1996). Còn giờ kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, không phải là 10 giờ ngày 30-4-1975, mà là muộn hơn về giờ.
Hai là, câu thứ hai của bài viết ghi: “Chỉ hơn 3 tháng, sau ngày 2-9-1945 Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam, đất nước ta phải đối đầu với nhiều kẻ thù. Quân và dân ta hết sức kiềm chế trước bọn cướp nước”. Không rõ tác giả Quang Anh muốn nhắc đến sự kiện nào trong tháng 12-1945-tức là 3 tháng sau ngày 2-9-1945, để nói là nước ta nhiều kẻ thù. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, nền độc lập non trẻ của chúng ta đã phải đối mặt với nhiều “thù trong, giặc ngoài” chứ không phải đợi đến 3 tháng sau đó. Ngoài giặc đói, giặc dốt, các đảng phái phản động và rất nhiều khó khăn chồng chất của một chính thể vừa khai sinh, trên đất nước ta, ngay sau Cách mạng, đã có: quân Anh, quân Pháp, quân Nhật và quân Trung Hoa dân quốc. Thực dân Pháp nổ súng xâm lược từ 23-9-1945, quân và dân Sài Gòn-Chợ Lớn đã lập tức đánh trả ngay, chứ đâu có “hết sức kiềm chế trước bọn cướp nước” như tác giả viết. Chúng ta chủ trương kiềm chế với những đội quân vào nước ta để giải giáp phát-xít Nhật theo sự phân công của phe Đồng minh.
Thứ ba, bài báo có đoạn: “Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hoà bình, tránh chiến tranh, đã đàm phán ở Đà Lạt đem lại kết quả Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946”. Viết như vậy, tác giả đã hiểu sai tiến trình lịch sử. Trên thực tế, dẫu biết Pháp trước sau vẫn muốn xâm lược đặt lại ách thống trị lên đất nước ta, Chính phủ ta đã đàm phán với Pháp, nhân nhượng họ để có thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Hai bên chỉ ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và thoả thuận tiếp tục đàm phán về các vấn đề còn bất đồng. Sau đó mới có tiếp Hội nghị Trù bị ở Đà Lạt để chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính thức tại Hội nghị Fontainebleau (Pháp). Sỹ Phúc