Nhân dịp 32 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, nhóm phóng viên Quốc phòng – An ninh, báo Quân đội nhân dân đã có dịp gặp gỡ một số tướng lĩnh - những người đã từng làm nên sự kiện lịch sử 30-4-1975. Qua những câu chuyện, kỷ niệm của các nhân chứng, một lần nữa có thể khẳng định: Đòn tiến công quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Đường lối đúng, kế hoạch khoa học

Một chiều cuối tháng 4-2007, chúng tôi được Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo tiếp tại nhà riêng. Nguyên là Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên tháng 3-1975 nên Thượng tướng nắm rất chắc tình hình chiến sự trên địa bàn này. Chiến dịch Tây Nguyên đã làm cho quân ngụy bị vỡ một mảng lớn trong thế trận phòng ngự, tạo ra sự đổ vỡ mang tính dây chuyền, đẩy quân nguỵ vào thế bị động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam. Chiến dịch Tây Nguyên cũng đã tạo tiền đề cho Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương có thêm căn cứ vững chắc trước khi đưa ra quyết định giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ngay trong tháng 4-1975.

Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo năm nay đã gần 90 tuổi, nhưng trông ông vẫn còn khoẻ mạnh, minh mẫn. Khi nhắc đến những kỷ niệm về ngày giải phóng miền Nam, ông hào hứng kể: “Ngay sau khi có chủ trương mở Chiến dịch Tây Nguyên, tôi được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương triệu tập để nhận nhiệm vụ làm Tư lệnh chiến dịch. Tôi hiểu rằng đây là một chiến dịch rất quan trọng, nên ngay sau khi hành quân vào Tây Nguyên, tôi đã đề nghị các anh ở Mặt trận Tây Nguyên họp bàn tìm ra những giải pháp tối ưu với mục đích là phải giành bằng được phần thắng của chiến dịch này. Trước khi thực hiện Chiến dịch Tây Nguyên ta đã nghiên cứu rất kỹ hình thế bố trí chiến lược của địch và thấy rằng địch đã hình thành tuyến phòng thủ mạnh ở hai đầu và yếu ở giữa. Nghĩa là chúng đã chú trọng xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc ở địa bàn Quân khu 1, Quân khu 3 (ngụy) và địa bàn Quân khu 2 (Tây Nguyên) là có lực lượng mỏng nhất. Vì vậy, việc Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương xác định mở chiến dịch Tây Nguyên, đột phá đúng vào nơi hiểm yếu nhất trong thế trận phòng ngự của địch là rất sáng suốt và khoa học.

Thực tế cho thấy, sau chiến dịch Tây Nguyên, thế trận phòng ngự của địch đã bị đảo lộn hoàn toàn. Chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra vết đứt gãy lớn, làm rung chuyển toàn bộ thế trận phòng ngự chiến lược của quân ngụy, đây cũng là chiến dịch đã tạo ra thời cơ để Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngay trong tháng 4-1975”.

Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại cho biết thêm: “Ở ngoài Bắc, khi chúng tôi báo cáo kế hoạch tác chiến với đồng chí Võ Nguyên Giáp đến đoạn phương châm tác chiến có nội dung “Nhanh chóng, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” Đại tướng liền lấy cây bút đỏ gạch ngay và nói “Thần tốc”. Có lẽ từ câu nói ấy mà sau này đã hình thành khẩu hiệu “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa” khi các đơn vị tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Chúng tôi đến thăm Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại tại khu tập thể Liễu Giai (Hà Nội) và được ông cho biết: “Đầu tháng 3-1975, tôi được điều về Cục Tác chiến và được anh Lê Hữu Đức (nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến) điều về Phòng Tổng hợp. Khi ấy tôi được biết, kế hoạch đánh Buôn Ma Thuột đã được chuẩn bị từ năm 1973. Trong khoảng thời gian ấy, anh Lê Hữu Đức và anh Vũ Lăng (Thượng tướng Vũ Lăng, nguyên Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 3) đã 8 lần bàn thảo với nhau về kế hoạch đánh Buôn Ma Thuột. Như thế chứng tỏ ta đã có sự chuẩn bị rất kỹ cho đòn đánh chiến lược này. Sáng ngày 11-3, tôi đến báo cáo anh Lê Trọng Tấn là đã tiêu diệt được Sư đoàn 23 của địch. Cũng trong ngày 11-3, sau khi họp ở Bộ Chính trị về, anh Tấn và anh Đức có nói lại ý của anh Ba (nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn) là: “Trước ta có cái kế hoạch 2 năm giải phóng Sài Gòn, thì nay ta lại có cái Buôn Ma Thuột, liệu đã tính đến tổng công kích được chưa?” Sau đó, chúng tôi được triển khai thành 2 tổ để lập kế hoạch tác chiến chiến lược. Một tổ lập kế hoạch đánh Đà Nẵng, một tổ lập kế hoạch đánh Sài Gòn. Lúc này, Quân đoàn 1 còn đang ở miền Bắc, nhưng sau khi có chủ trương giải phóng miền Nam trong tháng 4-1975, Quân đoàn 1 lập tức được điều động gấp vào miền Nam, chỉ giữ lại Sư đoàn 308 làm lực lượng dự bị chiến lược của Bộ. Nói thế để biết, việc thực hiện Chiến dịch Tây Nguyên và tiếp theo là các Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh để kết thúc cuộc chiến tranh đều đã được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương xác định từ trước và kịp thời điều chỉnh kế hoạch dựa trên diễn biến của thực tiễn”.

Chuẩn bị kỹ, tiến công thần tốc

Trung tướng Nguyễn Hải Bằng, nguyên Phó sư đoàn trưởng Sư đoàn 316 trong Chiến dịch Tây Nguyên nói với chúng tôi: “Sư đoàn 316 vinh dự được giao trọng trách đánh Buôn Ma Thuột - trận then chốt mở màn Chiến dịch Tây Nguyên. Nhận nhiệm vụ này, chúng tôi cơ động gấp từ Nghệ An vào Tây Nguyên. Toàn sư đoàn cơ động bằng hơn 800 xe ô tô. Để bảo đảm bí mật, an toàn, tránh không quân địch đánh phá, chúng tôi đã tổ chức hành quân theo các khối trung đoàn độc lập, đi gọn trong một đêm. Đây là cuộc hành quân đầu tiên bằng cơ giới ở cấp sư đoàn. Chúng tôi bắt đầu hành quân từ ngày 15-1-1975 theo đường Trường Sơn và đến ngày 3-2 thì toàn sư đoàn đã tập kết tại Đắc Đam (phía nam tỉnh Đắc Lắc). Thế là chỉ trong vòng nửa tháng, sư đoàn đã cơ động hơn 2000 cây số, bảo đảm bí mật, an toàn. Việc sư đoàn cơ động thần tốc, bí mật như vậy đã phần nào tạo ra tính bất ngờ đối với địch trước khi ta nổ súng đánh Buôn Ma Thuột. Khi chúng tôi báo cáo quyết tâm chiến đấu với Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và Phó Tống tham mưu trưởng Lê Ngọc Hiền tại chiến trường, các anh có hỏi: “Thời gian giải quyết Buôn Ma Thuột sư đoàn dự kiến mấy ngày?” Anh Đàm Ngụy (nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 316) trả lời: “Khoảng ba ngày”. Anh Dũng cười bảo: “Chỉ cho phép 3 ngày thôi đấy!” Thực tế sau này Sư đoàn 316 đã cùng các lực lượng giải quyết những mục tiêu chính trong thị xã Buôn Ma Thuột chỉ trong một ngày rưỡi và tiếp tục tập trung lực lượng cùng các đơn vị bạn đánh địch phản kích hòng tái chiếm Buôn Ma Thuột.

Xe tăng quân giải phóng trên đường phố Sài Gòn ngày 30-4-1975 (ảnh internet)

Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại cho biết thêm: “Ở ngoài Bắc, khi chúng tôi báo cáo kế hoạch tác chiến với đồng chí Võ Nguyên Giáp đến đoạn phương châm tác chiến có nội dung “Nhanh chóng, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” Đại tướng liền lấy cây bút đỏ gạch ngay và nói “Thần tốc”. Có lẽ từ câu nói ấy mà sau này đã hình thành khẩu hiệu “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa” khi các đơn vị tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Riêng về việc vận chuyển bảo đảm cho chiến dịch cũng được Bộ Tổng tư lệnh yêu cầu rất cao. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã yêu cầu ngành Vận tải phải bảo đảm khoảng 8 vạn tấn hàng cho toàn bộ cuộc tổng tiến công. Sau này các anh bên ngành Vận tải đã bảo đảm được khoảng 7 đến 8 vạn tấn. Toàn chiến trường miền Nam lúc bấy giờ cũng còn dự trữ khoảng hơn 40.000 tấn hàng, đủ để các quân, binh chủng tác chiến với quy mô lớn trong thời gian khoảng 2 tháng. Điều đó cho thấy, ngay từ khi xác định phương châm tác chiến, tất cả các công tác chuẩn bị đã được thực hiện theo. Như vậy, chúng ta đã cơ động lực lượng với tinh thần thần tốc, vận chuyển cơ sở vật chất cũng với tinh thần thần tốc.

Chúng tôi cũng đã trao đổi với Thiếu tướng Hồ Đệ, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10, ông khẳng định: “Ngay sau khi đánh Đức Lập, Sư đoàn tôi đã cơ động về Buôn Ma Thuột để đánh Sư đoàn 23 nguỵ đổ quân xuống hòng tái chiếm Buôn Ma Thuột. Chỉ trong ít ngày, toàn bộ Trung đoàn 44, 45 của ngụy bị chúng tôi diệt gọn tại Buôn Ma Thuột, thừa thắng, sư đoàn đánh thốc xuống miền duyên hải, cùng cánh quân duyên hải giải phóng Nha Trang, đánh chiếm quân cảng Cam Ranh và chuẩn bị tiến về Sài Gòn. Ngày 26-4-1975, chúng tôi thực hiện Chiến dịch Hồ Chí Minh với mục tiêu chủ yếu là đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu ngụy. Chỉ trong vòng một tháng rưỡi, Sư đoàn vừa cơ động, vừa đánh địch trên một chiều sâu hàng nghìn cây số.

Trong Chiến dịch Tây Nguyên, chúng tôi cũng đã được nhân dân giúp đỡ rất nhiều, các công việc như làm đường cơ động, vận chuyển cơ sở vật chất, nuôi giấu thương binh v.v… phải nhờ nhiều vào dân. Khi Sư đoàn 10 từ Nha Trang cơ động đi tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, phương tiện rất thiếu, chúng tôi đã phải huy động tất cả các loại phương tiện của nhân dân để chở quân.

Tôi phải nhắc lại là việc đánh vào Sài Gòn rất khó khăn, chứ không dễ dàng như một số người vẫn nghĩ. Sư đoàn 10 đã phải đánh những trận ác liệt tại Củ Chi, Thành Quan Năm, ngã tư Bảy Hiền, ngã ba Bà Quẹo v.v… trước khi tiến đến mục tiêu cuối cùng. Là người được tham gia trong chiến dịch Hồ Chí Minh với tư cách là Tham mưu trưởng Quân đoàn 3, tôi rất hiểu, con đường đến chiến thắng không bao giờ có hoa hồng. Nếu các cánh quân chủ lực của ta không tập trung sức mạnh, đập tan lực lượng kháng cự chủ yếu của địch ở ngoại vi Sài Gòn thì việc tiến vào thành phố sẽ vô cùng khó khăn và ý định giữ cho thành phố nguyên vẹn khi giải phóng cũng sẽ khó thực hiện được”.

Nổi dậy là hệ quả của tiến công quân sự

Trò chuyện với Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tham mưu trưởng Chiến dịch Tây Nguyên chúng tôi được ông cho biết: “Chiến thắng Tây Nguyên nói riêng và toàn thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói chung là một chiến thắng vĩ đại của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Trong chiến thắng này, vai trò của lực lượng quân sự là cơ bản, chủ yếu, quyết định thắng lợi, thế nhưng cũng không thể không nói đến vai trò nổi dậy của quần chúng nhân dân và hiệu quả tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương. Trong Chiến dịch Tây Nguyên, chúng tôi cũng đã được nhân dân giúp đỡ rất nhiều, các công việc như làm đường cơ động, vận chuyển cơ sở vật chất, nuôi giấu thương binh v.v… phải nhờ nhiều vào dân. Khi Sư đoàn 10 từ Nha Trang cơ động đi tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, phương tiện rất thiếu, chúng tôi đã phải huy động tất cả các loại phương tiện của nhân dân để chở quân. Rồi khi lực lượng chủ lực của quân đoàn tiến vào nội đô Sài Gòn, nếu không có nhân dân dẫn đường, không có lực lượng vũ trang địa phương khống chế các đồn bốt cơ sở của địch thì chắc chắn lực lượng chủ lực sẽ khó khăn hơn. Vì vậy tiến công quân sự là tiền đề cho nổi dậy thì nổi dậy chính là điều kiện giúp cho tiến công quân sự được nhanh hơn, rút ngắn thời gian đến ngày toàn thắng”.

Cũng về vấn đề này, Trung tướng Nguyễn Ngọc Thanh, Phó giám đốc Học viện Quốc phòng cho biết: “Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nổ ra thì tôi đang giữ chức Chủ nhiệm Pháo binh mặt trận Quảng Đà. Chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc thì chúng tôi được lệnh cơ động tham gia Chiến dịch Huế-Đà Nẵng và trực tiếp giải phóng thành phố Đà Nẵng. Trên đường chúng tôi tiến về Đà Nẵng, không khí cách mạng của nhân dân đã lên rất cao. Bà con đã huy động mọi loại phương tiện để giúp chúng tôi hành quân nhanh hơn. Đêm 28-3-1975, đơn vị tôi có mặt tại bến đò Xu và gặp lực lượng địch cố thủ ở đây hòng ngăn chặn quân ta tiến vào đánh chiếm Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 ngụy. Chúng tôi triển khai trận địa pháo binh, đập tan ổ đề kháng của địch ở khu vực bến đò Xu, mở cánh cửa để quân ta tiến vào Đà Nẵng. Hình như nhân dân cũng đã được chuẩn bị trước, nên khi quân ta tiến vào Đà Nẵng, nhân dân đã đem gạo nước đến nấu cơm giúp bộ đội, cũng nhờ thế mà tốc độ phát triển chiến đấu của đơn vị chúng tôi được nhanh hơn, thuận lợi hơn. Chúng tôi thấy tình cảm của nhân dân là vô bờ, được chiến đấu trong sự thương yêu đùm bọc của nhân dân thì chắc chắn chúng tôi sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.

Nhóm phóng viên QP-AN