 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân chụp ảnh kỷ niệm với gia đình họa sĩ Lê Duy Ứng nhân 37 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1991). Ảnh: Công Khuông |
Rừng cao su trên đồi Ông Trọng, chiều nay êm ắng lạ. Những đơn vị bộ đội giải phóng ém quân đâu đó, áo xanh lá ngụy trang, xe tăng ẩn sâu dưới những lùm cây, pháo tăng nghếch nòng chờ đợi. Những phút giây chờ đợi trong sự dồn nén đến nôn nao. Lính tăng, lính bộ binh, áo đỏ bụi đường qua suốt chiều dài chiến dịch, họ biết, giờ tổng tấn công lịch sử sắp đến.
Ứng đến gặp Đại đội trưởng xe tăng, đơn vị mà anh sẽ theo sát trong trận đánh lớn này. Sau cái bắt tay thân mật, Đại đội trưởng vui vẻ hỏi anh:
- Cậu thích đi xe nào?
- Tôi ấy à? Anh cho tôi đi xe nào mà đằng trước, đằng sau đều thấy quân ta dũng mãnh tấn công.
- Vậy hả? Cậu đi xe số 3 với mình!
Ứng trèo lên tháp xe chỉ huy Đại đội. Anh bắt chuyện ngay với chiến sĩ Mạnh, xạ thủ 12,7mm. Biết Ứng có máy ảnh, Mạnh đề nghị:
- Anh “chớp” cho em một kiểu nhé! Gửi tặng người yêu ở quê. Xong chiến dịch, bọn em sẽ làm lễ cưới.
- Sẵn sàng thôi!
… Câu chuyện của họ đã phải dừng lại. Hàng loạt pháo lớn của ta gầm vang, nhả đạn vào các cứ điểm phòng ngự của địch quanh Sài Gòn. Giờ tổng tấn công đã điểm. Cùng lúc đại đội tăng được lệnh xuất kích.
Đoàn xe rú máy dàn đội hình, bò ra khỏi rừng. Chiếc tăng chỉ huy Đại đội mang số 847 đưa Ứng nhập vào đoàn quân. Cả bìa rừng sôi động. Xe ra tới đường lớn đã thấy bộ binh như dòng thác ào ào về phía trước. Ứng bấm máy ảnh liên tục. Những bức ảnh tốc ký ghi lại cảnh bộ đội ta, xe tăng ta, pháo binh ta hùng dũng vào trận. Cảnh xe địch cháy, đạn dược nổ tung, kho xăng bốc lửa… âm vang suốt đoàn quân, khúc ca hùng tráng. “Sài Gòn ơi! Ta đã về đây… Tiến về Sài Gòn, giải phóng thành đô…”. Say sưa đứng trên xe tăng, Ứng định đưa máy ảnh xuống để quan sát, thì một chớp lửa bùng lên. Chiếc tăng chỉ huy trúng đạn chống tăng của địch, đứng sững lại, bốc cháy, xích xe đứt tung. Anh bị ngã vật xuống. Chốc lát định thần, cảm thấy máu chảy đầm đìa trên mặt, anh sờ tay xem. Ứng bỗng rùng mình. Mắt phải lồi ra, mắt trái cũng bị thương đầy máu. Anh thấy ngực tưng tức khó thở. Lại sờ xem, chiến sĩ Mạnh đã hy sinh nằm cạnh, chân gác cả lên ngực anh. Lúc này, đang diễn ra những giây phút sôi động trong ngày 27 tháng 4 của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975 lịch sử.
Ứng bỗng bàng hoàng. Vậy là hết ư? Trước chiến dịch, anh có ý định vẽ một bức tranh thật lớn, hình Bác Hồ vẫy tay chào nhân dân Sài Gòn trong ngày toàn thắng. Văng vẳng bên tai bài thơ “Tượng Bác trên đỉnh Trường Sơn”, tác giả Phạm Vũ kể về một công binh, trước giờ hy sinh còn kịp khắc xong tượng Bác lên một thân cây bị bom B52 đốt cháy trụi. Trí nhớ tái hiện đầy đủ về bức tranh vẽ Bác Hồ của Diệp Minh Châu năm 1947, thay mặt đồng bào Nam Bộ kính tặng Bác. Ứng vụt ngồi dậy. Bằng tâm linh thành kính của mình, bằng tất cả ký ức về Người có trong lòng, anh quờ lấy giấy trên cặp vẽ, dùng tay làm bút quệt máu đang chảy ra từ đôi mắt run run phác họa chân dung Bác, với lá cờ Đảng, cờ Tổ quốc đang như vẫy gọi. Xúc động, anh ghi thêm dòng chữ “Ánh sáng niềm tin!” - “Con xin nguyện dâng Người tuổi thanh xuân”.
Rồi Ứng gục xuống… Khi tỉnh lại, anh thấy xung quanh im lặng quá. Quờ tay chạm vào đồng đội, anh lay gọi không ai trả lời. Ứng không thấy được gì, trước mặt anh là một khoảng tối đen ngòm. Khát quá, anh thì thào: “Nước!”. Một quân y sĩ đi qua, nghe được, sờ tay lên mũi, phát hiện ra anh còn sống, đưa anh xuống một căn hầm gần đó, rồi hỏi:
- Đồng chí có biết chỗ ban nãy là đâu không?
- Ông này hỏi lạ, tôi bị thương cả hai mắt, có thấy gì đâu mà biết. Ứng trả lời.
- Nhà xác đấy! Ông thế mà gặp may, không thì… chẳng ai biết ông còn sống cả!
Người y sĩ thay áo quần cho Ứng, tình cờ phát hiện bức hình Bác Hồ được vẽ bằng máu trong túi áo. Và anh cẩn thận để bức vẽ vào ba lô cho Ứng.
Lúc này, tin vui vang dội khắp nơi: Sài Gòn được giải phóng! Rồi Ứng được đưa đến một trạm quân y ở Phan Thiết.
… Bệnh viện Nha Trang, những ngày đầu giải phóng. Đường phố cờ đỏ tung bay, náo nức tiếng còi xe hớn hở lòng người. Cuộc đổi đời đã đến. Tất cả quang cảnh tấp nập ngày mới giải phóng, Ứng chỉ cảm nhận được đôi chút qua âm thanh. Lê Duy Ứng không nhìn thấy ánh sáng nữa, đôi mắt không còn hy vọng cứu chữa được. Vui chung, buồn riêng. Đêm tối triền miên trong đau đớn, nỗi nhớ cồn cào nhanh chóng đưa anh trở về quê nhà. Ôi! Dòng sông Long Đại quê anh, những ngày này chắc vui lắm. Ứng cùng bạn bè thả trâu gặm cỏ, say sưa với chiếc cần câu nho nhỏ câu cá ong, cá bống, hay vui thú xem mấy chú nghé ngứa sừng đọ sức nhau. “Nhất cá cắn câu, nhì trâu bạng chắc”, niềm vui và kỷ niệm tuổi ấu thơ ào đến. Có buổi, Ứng say sưa nhào nặn đất sét, tạo nên những pho tượng xinh xắn. “Bàn tay thằng Ứng có hoa thật” bạn bè bảo vậy. Năm học lớp 5, anh đã là cộng tác viên vẽ tranh cho báo Đội. Năm học lớp 4 anh cùng bố đưa tranh mình đi dự thi toàn tỉnh Quảng Bình và đoạt giải nhất với bức vẽ “Tranh thủ cấy nhanh-hoàn thành trước tết”, còn tác phẩm của bố đành phải chịu đựng thứ hai.
Càng nhớ mảnh đất Cổ Hiền, nơi anh sinh ra và lớn lên, trước ngày vào chiến trường chưa một lần được trở về thăm. Nơi ấy, mẹ anh đã nằm xuống vĩnh viễn, khi anh còn ở đơn vị huấn luyện. Ngày mẹ qua đời, anh không kịp về chịu tang.
Rồi bỗng hiện lên khuôn mặt người bạn gái thân yêu đã nặng với anh một lời thề, ngày trở về chung xây tổ ấm. Họ quen nhau ở Đông Hà, Quảng Trị, một chiều ấm nắng. Anh ngồi vẽ tranh ở một đồi sim mua lúp xúp, lấp ló hoa trắng hoa vàng. Một tốp nữ thanh niên xung phong từ dưới chân đồi đi lên, tỏa ra giữa đồi sim. Chiến tranh, vẫn có những khoảnh khắc cho tuổi trẻ yêu đời là vậy. Thấy có anh bộ đội ngồi vẽ, họ xúm tới xem. Một cô có giọng nói Hà Nội ngồi cạnh anh, nhỏ nhẹ: “Em tên là Lê, quê gốc cũng ở Quảng Bình… Vậy là ta là đồng hương anh nhỉ”. Ứng cảm nhận sự ấm áp trong câu nói ấy. Lính chiến, có đồng hương giữa chiến trường, quí lắm! Mà hình như lúc này anh thấy người đồng hương mới thật gần gũi. Lê thầm thì: “Anh Ứng cho em xin một bức chân dung làm kỷ niệm chiến trường nhé!”.
Ứng ngắm nhìn Lê, muốn vẽ cho Lê một bức vẽ đặc biệt. Anh nhận biết rằng phải bằng chính tình cảm chớm dậy từ trái tim mình. Sau đó, trong một dịp ra làm phòng tranh triển lãm ở Đông Hà, anh lại được gặp chị. Đơn vị Lê đóng gần đó. Khoảng cách tự nhiên rút ngắn, tình cảm của họ gần thêm. Một lần anh bị ngã, chân sưng vù, Lê tìm quả đu đủ cắt đôi hơ lửa ấp vào vết sưng cho anh. Anh cảm động cầm lấy tay chị. Họ đã cảm nhận được hơi ấm của nhau. Và họ đã nhận lời làm bạn trăm năm, vào một đêm trăng đẹp giữa lòng Quảng Trị. Lại một dịp may khác, anh thay mặt đơn vị tham gia triển lãm tranh ở Hà Nội, là lúc chị hết hạn phục vụ, trở về làm việc tại cửa hàng ăn uống Nguyễn Công Trứ ở Thủ đô. Một tháng, đủ cho họ dự tính biết bao điều cho tương lai… Nhưng rồi cũng một đêm trăng, Ứng tạm biệt Lê trở về đơn vị. Chị ghi vào cuốn sổ tay kỷ niệm tặng anh mấy dòng tâm sự:
Anh đi, trăng sắp độ tròn
Mùa xuân quá nửa, lá giòn khô cây
Tiễn anh trong cảnh đêm này,
Lòng ta muôn tiếng, sao đầy lặng im
Có thêm cả một nắm tóc thề của chị. Mấy mùa hành quân, kỷ vật người yêu sưởi ấm lòng anh, thêm sức cho đôi chân mạnh bước đường dài. Anh nuôi mơ ước trong lòng, có dịp anh đưa Lê về quê anh-làng Cổ Hiền, quê chị cũng bên kia-làng Long Đại, thuộc xã Hiền Ninh đôi bờ đầy ắp sóng cửa sông Nhật Lệ, có Cồn Soi rợp mắt tán cây bần, cây sú…
Có tiếng con gái nhỏ gọi, Ứng chợt ngưng cơn mơ.
- Ai gọi tôi đó?
- Em đây-Dung y tá đây. Anh Ứng mơ gì vậy?
- Tôi mơ hả? Thế cô Dung nghe được gì mà biết.
Em nghe anh gọi tên cô Lê nào đó.
- Đúng… Lê là… bạn gái của tôi…
- Ôi vui quá! Mừng cho anh có bạn gái rồi nhé! Thế anh đã gửi thư báo tin cho Lê chưa?
- Chưa… À mà thôi, cuộc đời thế này, báo tin làm gì cho Lê thêm khổ!
- Đừng nghĩ quẫn anh Ứng à! Em tin dù thế nào chị Lê vẫn chờ anh. Phải lạc quan chứ anh! Anh có nghe tiếng hát của ai đấy không? Anh Phơn đấy, cũng hỏng cả hai mắt như anh lại cụt cả hai tay, vậy mà vẫn ca hát!
… Tạm biệt Nha Trang, Ứng được đưa về Viện quân y 108 Hà Nội. Sinh hoạt của người bệnh xa quê lặng lẽ trôi qua, không làm anh vui được. Chỉ những giấc mơ đẹp là thường xuyên lui tới với anh. Một hôm anh mơ lạc vào động Tiên, được gặp tiên nữ Giáng Hương. Tiên nữ ban phát cho anh nhiều thứ, anh chỉ nhận hộp màu và cây bút vẽ. Trở về quê, anh say sưa vẽ. Lạ lùng thay, cảnh vật trong tranh đều hóa thật. Anh vẽ chiếc cầu bắc qua sông Long Đại cho dân đi chợ, ngôi trường ngói cho trẻ làng học, ngôi nhà cho gia đình sum họp sớm hôm... Tỉnh dậy, anh vẫn còn bàng hoàng...
Bác sĩ Đào Xuân Trà đến bên, ân cần khuyên nhủ:
- Hoàn cảnh của Ứng bây giờ, không vẽ được, hãy thử dùng tay nặn tượng xem sao? Ở Liên Xô, có người mù mắt mà vẫn tạc tượng được đấy!
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã đến thăm anh. Đại tướng nói với anh khi chia tay: “Một nhạc sĩ cần âm thanh để sáng tác, mà Bét-thô-ven lại điếc cả hai tai, vẫn sáng tác được những bản nhạc nổi tiếng... Đồng chí hãy lấy tấm gương ấy mà phấn đấu, rèn luyện”.
Bạn bè cùng lớp trước đây ở trường hội họa Hà Nội mang về những nắm đất sét dẻo mềm, động viên anh thêm. Anh như có sức mạnh mới, bắt tay vào việc. Lúc đầu là những khối vuông, chữ nhật, rồi khối hình trụ. Mẫu vật đơn giản khởi đầu cho những hình tượng khó về sau. Cũng không khỏi có người bàn lui rằng, mắt mũi thế kia thì làm được gì mà cố. Anh vẫn bền chí. Rồi anh nặn được cả hình người. Một ý nghĩ táo bạo đến với anh, phải nặn cho được chân dung Bác Hồ! Khó quá, giá như mình có đôi mắt sáng. Hồi nhỏ, ngày 16-6-1957, anh được bố đưa về quê Đồng Hới đón Bác Hồ vô thăm Quảng Bình. Hình ảnh Bác khắc đậm trong tâm trí anh. Hình Người còn được anh phác họa trong bức tranh cổ động lớn ở Đà Nẵng trên đường chiến dịch lớn năm 1975 với dòng chữ chú thích “Thần tốc! Thần tốc! Táo bạo! Quyết thắng”.
Một cụ già người Đà Nẵng đến nói với anh:
- Anh giải phóng ơi! Vẽ cho già một bức hình Cụ Hồ với, già cần lắm, để già đặt thờ trên bàn thờ Gia Tiên đó!
Anh cảm động vẽ tặng cụ già bức chân dung Bác Hồ. Tất cả, hồi ức lại trong trí nhớ, rồi từ hai bàn tay mò mẫm từng đường nét, mân mê tỉa gọt, nhào nặn, cùng với lòng tôn kính lãnh tụ sâu sắc và sự yêu thích nghệ thuật đến mãnh liệt. Tất cả những điều đó đã cho người thương binh hỏng mắt Lê Duy Ứng sức mạnh phi thường-Bức tượng chân dung Bác Hồ được hoàn thành trong tiếng reo vui cảm kích của đồng đội, của mọi người. Sau đó, thêm một bức phù điêu nữa về chân dung của Bác, anh đề vào câu thơ:
Hỏng mắt, con tạc tượng Người
Niềm tin, ánh sáng trọn đời trong con!
Chặng thời gian tám năm tiếp sau đó, vẫn trong điều kiện không thấy ánh sáng mặt trời, anh đã lao động cật lực, bền bỉ, nặn được pho tượng các loại, có cả tượng Bác Hồ dịch sử Đảng, tượng Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trãi, có những tác phẩm đã được giải thưởng Quốc gia.
Cũng thời gian này, hạnh phúc đã đến với anh. Chị Lê vẫn chung thủy như buổi ban đầu, chủ động tìm gặp được anh. Gặp nhau chị òa khóc:
- Anh Ứng, sao anh tệ lắm vậy, ra Hà Nội mà không có tin tức gì cho em cả?
- Lê thông cảm cho anh, cái rủi, để mình anh chịu, anh không nỡ để em phải khổ vì anh...
Chị càng nức nở:
- Anh đừng nghĩ quẩn! Dù hoàn cảnh thế nào, em vẫn giữ lời thề xưa...
Rồi chị chân thật nói:
- Chỉ có em thôi, làm vợ anh, anh mới hình dung ra vợ mình vóc dáng ra thế nào đó anh à!
Họ sung sướng tổ chức một lễ cưới đơn giản mà ý nghĩa. Họ xây dựng một tổ ấm nho nhỏ mà chan chứa hạnh phúc ở khu tập thể Trương Định, Hà Nội, sau đó là một cháu trai bụ bẫm ra đời. Chị âu yếm:
- Anh đặt tên cho con đi anh!
Anh chưa hết bàng hoàng vì hạnh phúc.
- Ừ nhỉ! Thế tên con là gì hở em? Có họ Trần của em, họ Lê của anh nhé!
Chị xúc động:
- Em muốn con đầu lòng của chúng ta, mang kỷ niệm buổi ban đầu ở Quảng Trị ấy...
- Vậy là... tên con là Lê Đông Hà, em nhé!
*
* *
Ngày 4-10-1982, với kỹ thuật vi phẫu thuật hiện đại, với công lao to lớn của Giáo sư-bác sĩ Nguyễn Trọng Nhân và tập thể khoa tổng hợp Viện Mắt Trung ương, anh được ghép một mắt thật. Niềm vui lớn không ngờ được đã đến. Ánh sáng tự nhiên đã về trong mắt anh, chấm dứt một chặng dài tám năm sống không có ánh sáng. Giây phút thật cảm động. Anh ôm chầm mọi người, các bác sĩ, các thầy thuốc, đồng đội, cùng rơi nước mắt đồng cảm với anh. Anh lại một lần khóc khi được nhìn lại người vợ chung thủy. Chị nghẹn ngào sung sướng:
- Chắc bây giờ, anh thấy em già đi nhiều lắm!
- Không đâu! Em càng đẹp, hơn cả ngày xưa nữa đấy!
Lê Đông Hà, con trai anh, chập chững phác chân dung của bố và reo lên:
- A! Bố Ứng sáng mắt lại rồi, mẹ ơi! Bố Ứng của con đã sáng mắt lại rồi!
Sung sướng, anh cầm lại cây bút vẽ thân yêu. Những nét vẽ chắt ra từ tim. Anh tô đậm hình ảnh chiếc xe tăng mang biển số 847 lịch sử, hình ảnh chiến sĩ Mạnh, cùng Đại đội trưởng Đình trong tư thế chỉ huy, những đồng đội của anh trong chiến dịch Đại thắng mùa Xuân 1975 ấy, đã hy sinh để đất nước hoàn toàn bình yên.
Sung sướng, anh lại cho ra đời những tác phẩm điêu khắc, hội họa mới về lãnh tụ Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu, bằng cả trái tim của một người lính, một họa sĩ thương binh, bằng cả tình yêu của một người con đất Việt đối với người Cha vĩ đại mà gần gũi của dân tộc Việt Nam.
NGUYỄN ANH DŨNG