Abbot Low Moffat, Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã thực hiện chuyến viếng thăm Hà Nội không chính thức trong bốn ngày, từ 6 đến 9-12-1946. Một điều đặc biệt là cuộc viếng thăm Hà Nội chỉ có một quan chức Mỹ bí mật, không báo trước vào một thời điểm nhạy cảm (sau những vụ đụng độ Việt-Pháp ở Hải Phòng và Lạng Sơn trước ngày Toàn quốc kháng chiến) và không được công bố rộng rãi trên báo chí lúc đó về các cuộc tiếp kiến với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Minh Giám. Chỉ có báo Cứu Quốc, cơ quan của Mặt trận Việt Minh, đưa một tin ngắn về cuộc viếng thăm này. Sau một thời gian dài thu thập tài liệu xung quanh sự kiện quan trọng này, chủ yếu là nguồn tài liệu từ phía Hoa Kỳ, nhân kỷ niệm 60 năm ngày Toàn quốc kháng chiến, bài viết này đề cập đến Cuộc viếng thăm Hà Nội của một quan chức ngoại giao Hoa Kỳ trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Theo sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, chuyến viếng thăm Việt Nam của Abbot L. Moffat nhằm tìm hiểu tình hình thực tế ở Việt Nam, ở Đông Dương, nên trong chương trình làm việc của mình, ông tiến hành các cuộc tiếp xúc với quan chức Pháp, với người đứng đầu cái gọi là Chính phủ lâm thời Nam Kỳ, với đại diện Lãnh sự Anh, với đại diện Lãnh sự Trung Hoa Quốc dân Đảng và đích cuối cùng là những người đứng đầu Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (DCCH). Một bức điện khẩn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ định hướng cho hoạt động của A.L. Moffat như sau: “Phải nhớ là Hồ được thừa nhận là nhân viên của chủ nghĩa cộng sản quốc tế, sự thiếu vắng bằng chứng công khai từ bỏ sự liên hệ với Mátxcơva đã làm rối rắm tình hình chính trị của Pháp và sự ủng hộ mà Hồ nhận được từ Đảng Cộng sản Pháp. Theo quan điểm của Bộ Ngoại giao, ít ra tình hình có thể diễn ra là một nhà nước Đông Dương được thiết lập do cộng sản thống trị và Bộ rất quan tâm tới thông tin về sức mạnh của những phần tử không cộng sản của Việt Nam”.

Trước hết, xin tóm tắt lịch trình chuyến công cán của Abbot Low Moffat tại Việt Nam. Ông tới Sài Gòn lúc 4 giờ 45 phút ngày 3-12-1946, được Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Charlie Reed cùng phu nhân và một số quan chức Pháp đón về Khách sạn Palace. Sau các cuộc tiếp xúc với những nhân vật cao cấp Pháp như tướng Valluy, phụ trách về quân sự; Pignon, phụ trách về chính trị và Canon, phụ trách về tài chính (thời điểm này D’Argenlieu không có mặt ở Sài Gòn), với hai nhân vật cao cấp trong cái gọi là Chính phủ lâm thời Nam Kỳ là Lê Văn Hoạch (Chủ tịch) và Trần Văn Tỵ (Phó Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ), đến 6 giờ 30 phút, A.L.Moffat đáp máy bay C-47 đi Hà Nội. Ngày 7-12-1946, ông tiếp xúc với ông Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ nhật, 8-12-1946, sau khi đi thăm vịnh Hạ Long về, ông dự tiệc trà chiêu đãi của Chính phủ Việt Nam và trò chuyện với ông Hoàng Minh Giám, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao tại Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Hà Nội, xen kẽ là những cuộc trò chuyện với Lãnh sự Anh Wilson và Lãnh sự Trung Hoa dân quốc Yuen. Sáng 9-12-1946, ông đáp máy bay trở lại Sài Gòn. Sau hai ngày thăm Đà Lạt, ông trở lại Sài Gòn và viết bản tường trình (được sự nhất trí của Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn) gửi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Ngày 17-12-1946, ông kết thúc chuyến thăm.

Theo lịch trình trên, một điều dễ nhận thấy là chuyến thăm Hà Nội của A.L. Moffat diễn ra vào một thời điểm hết sức nhạy cảm-sau những vụ đụng độ Việt-Pháp ở Hải Phòng và Lạng Sơn và trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Song, điều quan trọng hơn là phải đặt các sự kiện diễn ra ở Việt Nam trong bối cảnh thế giới và khu vực vào thời điển đó mới có thể thấy được mục đích cơ bản của chuyến công cán Việt Nam của ngài Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.

Như chúng ta biết, quan hệ Xô-Mỹ trở nên xấu đi một cách nhanh chóng từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai và càng tồi tệ suốt cả năm 1946, đặc biệt với sự ra đời của một loạt các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, chủ nghĩa xã hội không còn là “một hiện tượng Nga”, mà đã trở thành một hệ thống. Tình hình ở Trung Quốc cuối năm 1944 cũng trở nên tồi tệ. Phái bộ Marshall đã thất bại và Trung Quốc nhanh chóng bị cuốn vào cuộc nội chiến. Cuộc chiến đấu của nhân dân Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đang giành được những thắng lợi to lớn. Phía được Mỹ làm hậu thuẫn đang mất dân, tham nhũng. Như vậy, trong con mắt của các nhà chiến lược Mỹ, bản đồ chính trị thế giới cho đến cuối năm 1946 đã có sự thay đổi đáng kể, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện, mà biên giới của nó từ sông Enbơ ở phía Tây và có thể kéo dài tới tận biên giới Việt-Trung ở phía Đông. Đông Dương-với vị trí chiến lược như vậy, đã được đặt ra trong kế hoạch hậu chiến tại các cuộc hội nghị của phe Đồng Minh, từ Hội nghị Ianta đến Hội nghị Pốt-xđam. Giờ đây, Đông Dương, đặc biệt Chính phủ nước Việt Nam DCCH, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người cộng sản nổi tiếng mà chính quyền Hoa Kỳ từ Roosevelt đến Truman đã từng biết tới, lại càng được Hoa Kỳ quan tâm hơn. Ta có thể phác hoạ tóm tắt thái độ của Hoa Kỳ từ năm 1943 đến cuối năm 1946 như sau. Từ Hội nghị Ianta đến tháng 10-1944, khi nước Pháp được giải phóng, Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt kiên quyết không cho Pháp trở lại Đông Dương, bởi lẽ “nước Pháp có một xứ sở ba mươi triệu dân mà sau gần 100 năm cai trị, nhân dân xứ sở này trở nên tồi tệ hơn khi họ mới tới... Nước Pháp đã vắt kiệt sức họ trong suốt 100 năm” và ông đưa ra ý tưởng thành lập một Cơ quan Uỷ trị quốc tế cho Đông Dương sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Từ sau khi thành lập Chính phủ De Gaulle cho đến trước khi mất, Roosevelt không hề nhắc lại ý tưởng này. Rõ ràng, ý tưởng của Roosevelt cũng chỉ xuất phát từ lợi ích của Hoa Kỳ, chứ không phải từ một “tình cảm chống thực dân” nào cả như các nhà nghiên cứu lịch sử thời kỳ này của phương Tây thường ca ngợi. Dưới thời Truman, tháng 6-1945, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công khai tuyên bố: “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ công nhận chủ quyền của nước Pháp tại Đông Dương...” và Hoa Kỳ đóng vai trò “người quan sát lặng lẽ nhưng rất chăm chú” những sự kiện diễn ra ở Đông Dương cho đến cuối năm 1946.

Là một nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm, khi tới Hà Nội, mặc dù được quan chức Pháp, Anh và Trung Hoa dân quốc săn đón bằng phương tiện đi lại sang trọng nhất lúc đó, nhưng ông chọn chiếc xe Jeep của Jimson màu trắng, cắm cờ Mỹ làm phương tiện đi lại duy nhất, bởi lẽ ông “không muốn tới Hà Nội dưới sự bảo trợ chính thức của người Pháp và không muốn họ lợi dụng về chính trị chứng tỏ sự ủng hộ của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam”. Sau khi thu xếp chỗ ở trong The Standard Vacuum House, chiều 6-12-1946, A.L. Moffat đến Phủ Chủ tịch để thu xếp cuộc yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, nhưng được biết Hồ Chí Minh đang mệt và Võ Nguyên Giáp đi vắng, nên ông gửi lại danh thiếp rồi ra về. Sáng hôm sau, ngày 7-12-1946, A.L. Moffat nhận được một lá thư ngắn báo là ông Võ Nguyên Giáp rất vui mừng nếu như ông gọi điện thoại cho ông Giáp vào lúc 11 giờ và Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể tiếp ông vào lúc 17 giờ. Tiếp đó, Hoàng Minh Giám, Thứ trưởng Bội Ngoại giao, tới xem A.L. Moffat còn có mặt ở đó hay không và đã nhận được bức thư ngắn hay chưa.

Cuộc gặp gỡ chính thức đầu tiên của A.L.Moffat với một quan chức cao cấp trong Chính phủ ta là với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp vào trưa 7-12-1946. Trước cuộc gặp gỡ này, qua những quan chức cao cấp Pháp và O’Sullivan, Phó Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, A.L. Moffat được biết Võ Nguyên Giáp là một người cộng sản rất thông minh, có lý tưởng và là một trong những người đứng đầu phái cứng rắn trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Có lẽ, thông qua cuộc gặp gỡ này, ông muốn thăm dò thái độ của Chính phủ chúng ta sau một loạt những hành động ngang ngược của thực dân Pháp tại Hải Phòng, Lạng Sơn, bởi lẽ, trong ghi chép của ông chỉ tập trung đề cập tới chủ đề này. Sau đây là một đoạn: “Ông (Võ Nguyên Giáp) đã nói rằng người Việt Nam có thể không thắng, và rằng trong bất kỳ trường hợp nào người Pháp cũng không thể thắng... Trước khi chúng tôi tạm biệt ông, ông còn nhắc lại rằng thậm chí với xe tăng, máy bay và súng máy, người Pháp vẫn có thể bị đánh bại. Giáp cũng khái quát yêu cầu của chính phủ ông đối với phía Pháp: 1. Thành lập một uỷ ban hỗn hợp để nghiên cứu tình hình quân sự ở Hải Phòng; 2. Thành lập một uỷ ban hỗn hợp để nghiên cứu tình hình hải quan ở Hải Phòng; 3. Quân đội Pháp và quân đội Việt Nam trở lại quy chế trước ngày 20 tháng 11. Ông đã yêu cầu Sainteny gửi những yêu cầu này về Paris và bây giờ đang đợi trả lời. Ông nhấn mạnh rằng người Việt Nam muốn hoà bình và Việt Nam sẽ không là nước gây chiến đầu tiên”.

17 giờ ngày 7-12-1946, M.L. Moffat được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng tiếp khách với Chủ tịch còn có ông Hoàng Minh Giám. Trong buổi tiếp đó, Người nói về tình hữu nghị và sự khâm phục đối với nhân dân Mỹ và những người Mỹ mà Người từng quen biết và cùng làm việc trong rừng sâu Việt Bắc và cả những điều sâu kín nhất lần đầu tiên được biết tới. Trong thư gửi về Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, A.L.Moffat có ghi lại những suy tư của Người trong cuộc trò chuyện đó:

“Lúc 5 giờ, sau giấc ngủ trưa, chúng tôi tới Phủ Chủ tịch, Giám đón chúng tôi ở tiền sảnh và dẫn chúng tôi lên thang gác tới phòng của Hồ Chí Minh, ở đấy ông đang nằm trên một chiếc giường rộng, cổ quàng một chiếc khăn màu đen. Mặc dù ông không còn sốt nữa, nhưng ông còn rất yếu và giọng nói của ông cũng còn rất yếu. Ông nói về tình hữu nghị và sự thán phục của ông đối với Hoa Kỳ và những người Mỹ mà ông đã từng biết và cùng nhau làm việc trong rừng sâu... và họ đã cư xử với người Việt Nam bình đẳng ra sao. Ông nói về lòng mong muốn của ông: Việt Nam hợp tác với người Pháp để nhân dân của ông có thể sống tốt đẹp hơn và đi tới đích cuối cùng mà họ mong muốn là độc lập và tìm kiếm bạn bè trong số các nước khác như nước Pháp và để nhận được tư bản cần cho sự phát triển đất nước mà nước Pháp bây giờ cũng còn nghèo cung cấp cho họ. Ông nói, ông đã từng biết rằng Hoa Kỳ không ưa chủ nghĩa cộng sản, nhưng điều đó không phải là mục đích của ông. Giá mà ông có thể đảm bảo được nền độc lập của họ thì ông đã mãn nguyện lắm rồi. Có lẽ năm mươi năm nữa kể từ bây giờ, Hoa Kỳ sẽ trở thành một nước cộng sản; và khi đó Việt Nam cũng có thể trở thành một nước cộng sản hoặc… khi đó họ sẽ không còn là đối tượng nếu như Việt Nam cũng là nước cộng sản...”.

17 giờ Chủ nhật 8-12-1946, Thứ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám tổ chức tiệc trà chính thức tại Phủ Chủ tịch nhằm bày tỏ thiện cảm của Chính phủ ta đối với cuộc viếng thăm của Ngài A.L.Moffat. Trong tiệc trà này, người ta chứng kiến sự hiện diện của bà Sainteny, ông Morlière, ông Lami và một số quan chức Pháp cùng với một số quan chức, thương gia, bác sĩ người Việt. Từ tiệc trà này mà có cuộc gặp gỡ riêng giữa Hoàng Minh Giám và A.L.Moffat lúc 18 giờ cùng ngày tại Lãnh sự quán Hoa Kỳ trên phố Hai Bà Trưng. Mở đầu cuộc trò chuyện này, ông Hoàng Minh Giám trân trọng chuyển quà của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới ngài A.L.Moffat kỷ niệm chuyến thăm Hà Nội gồm một bức ảnh chân dung có lời đề tặng của Người và một tấm thổ cẩm. Tiếp đó, ông Hoàng Minh Giám đề cập tới một loạt những mong muốn của Chính phủ ta về một liên bang kinh tế Đông Dương, một liên hiệp hải quan và mậu dịch Đông Dương, về những hải cảng tự do, quyền mậu dịch tự do và tìm kiếm vốn nước ngoài từ những nước giàu có. Ngoài những vấn đề chung đó, trong cuộc gặp gỡ riêng này, Hoàng Minh Giám, thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã “lật bài ngửa” trước A.L. Moffat về “mong muốn tư bản Hoa Kỳ, buôn bán với Hoa Kỳ; hy vọng hàng không Hoa Kỳ sẽ sử dụng Hà Nội, hàng hải Hoa Kỳ sẽ sử dụng Hải Phòng...”. Trong thư viết từ Hà Nội gửi về Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ của A.L Moffat có một đoạn đáng chú ý như sau:

“Ông (Hoàng Minh Giám) nói rõ Việt Nam không có hải quân và không có ý định tiến hành chiến tranh, nhưng lấy làm sung sướng được hợp tác với Hoa Kỳ trong việc xây dựng vịnh Cam Ranh thành một căn cứ hải quân vì nó có vị trí quan trọng giữa Singapore và Hồng Công và đối diện với P.I ( Paracel Island-Phạm Xanh)”.

Những vấn đề mà Hoàng Minh Giám bày tỏ cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giãi bày trong cuộc trò chuyện với Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Paris, George M. Abbott, khi Người tới thăm Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Pháp ngày 12-9-1946. G.M.Abbott đã ghi lại:

“Nhiều lần Hồ Chí Minh nói tới sự giúp đỡ từ phía Mỹ mà ông hy vọng, nhưng rất mập mờ, ngoại trừ sự giúp đỡ kinh tế. Về lĩnh vực kinh tế, ông giải thích rằng đất nước ông giàu có nhưng chưa phát triển, rằng ông cảm thấy Đông Dương là mảnh đất màu mỡ cho tư bản và các hãng kinh doanh Hoa Kỳ... Ông rất muốn dành cho người Pháp quyền ưu tiên trong các lĩnh vực như cố vấn, đất nhượng và các mặt hàng máy móc và trang thiết bị, nhưng nếu như người Pháp không đáp ứng được yêu cầu của đất nước ông thì nước ông có quyền đến với các nước anh em khác. Ông gợi ý rằng chính sách đó có thể áp dụng cả với những vấn đề liên quan tới căn cứ hải quân tại vịnh Cam Ranh”.

Là một nhà ngoại giao nhiều kinh nghiệm, trong cuộc gặp gỡ này cũng như nhiều cuộc trò chuyện khác, A.L. Moffat im lặng lắng nghe hoặc thẳng thừng từ chối bình luận những vấn đề liên quan tới chính trị hoặc từ chối gián tiếp bằng những câu đại loại như “tôi không biết gì về các kế hoạch quân sự của chính phủ tôi”. Dẫu sao, trong cuộc trò chuyện riêng này, ông cũng đã bộc lộ một thái độ thẳng thắn: “Tôi chắc rằng Hoa Kỳ rất muốn mậu dịch và buôn bán với Việt Nam, tôi đề cập tới con đuờng đã hoạch định mà đã được CAB phê chuẩn, bao gồm cả Hà Nội, nhưng tôi cũng nói rõ là trước khi chúng ta có thể có bất kỳ các quan hệ trực tiếp nào, Việt Nam và Pháp sẽ phải thoả thuận về quyền lực tương ứng giữa hai chính phủ”.

Sau những cuộc tiếp xúc ngắn, chớp nhoáng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Minh Giám, với Lãnh sự Anh Wilson, với Lãnh sự Trung Hoa dân quốc Yuen, A.L. Moffat trở lại Sài Gòn. Tại đây, với sự giúp đỡ của Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ Charlie Reed, A.L. Moffat đã hoàn thành bản tường trình “phản ánh suy nghĩ hiện thời của Bộ Ngoại giao Mỹ”. Những quan điểm của ông được trình bày trong bức điện gửi Bộ Ngoại giao đề ngày 17-12-1946 như sau: “Chính phủ Việt Nam do một nhóm nhỏ cộng sản kiểm soát có mối quan hệ không trực tiếp với Mátxcơva và có quan hệ trực tiếp với Diên An (tổng hành dinh cơ quan kháng chiến Đảng Cộng sản Trung Quốc)”.

Do vậy, Chính phủ Hoa Kỳ, dù chưa tìm được giải pháp cho những vấn đề Đông Dương của Pháp, nhưng “hiện thời đã tìm được một giải pháp là không để cho Hồ Chí Minh giành được bất cứ một thắng lợi quân sự hoặc chính trị nào cả bởi vì mỗi thắng lợi của Hồ Chí Minh trong viễn cảnh Chiến tranh lạnh mới sẽ thực sự là một thắng lợi đối với Kremlin”.

Từ những điều đã trình bày ở trên, ta có thể đi tới kết luận rằng chuyến công cán Hà Nội cuối năm 1946 của Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ A.L. Moffat đã góp một phần không nhỏ vào sự thay đổi chính sách đối với Việt Nam của Chính quyền Truman-chuyển từ “người quan sát im lặng nhưng rất chăm chú” sang hành động thiết thực giúp đỡ nước Pháp. Trong cuộc hội đàm với Đại sứ Pháp Bonnet, ngày 23-12-1946, tại Washington, Dean Acheson, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, đã biểu lộ sự “quan tâm sâu sắc” tới cuộc chiến tranh bùng nổ ở Bắc Kỳ và chỉ ra rằng “Trong khi chúng tôi chưa muốn ra tay ngay tức thì trong điều kiện hiện nay”, Chính phủ Hoa Kỳ đã “sẵn sàng và muốn làm cái gì đó có thể xem như giúp đỡ trong hoàn cảnh này”.

Vậy là đã rõ. Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, được thành lập sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 8-1945, đã công bố chính sách đối ngoại rộngmở “muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, trong đó có Hoa Kỳ và cố gắng từng bước thực hiện chính sách đó trên thực tế. Nhưng Hoa Kỳ, dưới thời Roosevelt và Truman, xuất phát từ lợi ích trực tiếp của mình, đã làm ngơ trước những mong muốn chính đáng của Việt Nam-muốn được hưởng hoà bình và độc lập. Từ tháng 1-1947, Hoa Kỳ chuyển sang có thái độ thù địch đối với Việt Nam. Sự thù địch giữa hai quốc gia trở thành sự đối đầu trong gần 4 thập kỷ với biết bao xương máu và của cải của hai nước đã đổ xuống, để đến năm 1995, hai quốc gia mới thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau.

PHẠM XANH