 |
Chị Ngô Thị Thương (thứ hai từ phải sang) chụp ảnh lưu niệm với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và gia đình năm 2004. |
(Tiếp theo và hết)
Trởvề Hà Tĩnh, anh Côi nhanh chóng triển khai ngay các biện pháp tìm kiếm người nữ tự vệ. Anh dựa vào hệ thống tổ chức Đoàn của tỉnh để phát tín hiệu tìm kiếm. Tuy nhiên, do thông tin rất ít nên việc tìm ra manh mối không đạt kết quả.
Tháng 8-2003, anh Côi đã đăng lời nhắn tin tìm người nữ tự vệ năm xưa với những thông tin ban đầu mà Đại tướng đã cung cấp trên báo Hà Tĩnh. Trong suy nghĩ của anh Côi và các đồng nghiệp, “cô gái” ngày ấy chắc là có hộ khẩu ở Hà Tĩnh. Nhưng suốt một thời gian dài không hề nhận được hồi âm, anh Côi lại nghĩ đến tình huống: Có thể sau ngày đất nước thống nhất cô đã vào Nam lập nghiệp. Anh đã tranh thủ đi tìm ở khu vực Tây Nguyên và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nơi mà bà con Hà Tĩnh thường đến khai hoang, nhưng vẫn bặt vô âm tín.
Mãi đến đầu năm 2004, ông Phan Đình Kháng, nguyên Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Hà Tĩnh tìm đến anh Côi cho biết: Cô gái mà Đại tướng muốn tìm rất có thể là Ngô Thị Thương, công nhân Đội tu bổ rừng, đồng thời là nữ chiến sĩ tự vệ của lâm trường Cẩm Kỳ trong thời kỳ chống Mỹ. Sở dĩ ông Kháng biết chuyện chị Thương là vì trong năm 1968, ông là Chủ tịch Công đoàn của lâm trường Cẩm Kỳ. Ông biết chiến công của Ngô Thị Thương nhưng ông không phải là người trực tiếp chỉ huy cũng như tận mắt chứng kiến lúc chị Thương bắn rơi máy bay. Người nắm rõ hơn là ông Nguyễn Huy Thàng, nguyên Đội trưởng Đội tu bổ rừng của Ngô Thị Thương, hiện đang nghỉ hưu tại xã Cẩm Trung (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh). Từ đầu mối thông tin của ông Thàng, anh tìm ra địa chỉ của những người đồng đội từng chứng kiến Ngô Thị Thương bắn rơi máy bay cũng như được mời đi báo cáo kinh nghiệm. Và đến lúc này, anh Côi mới biết chính xác địa chỉ của người nữ tự vệ mà bấy lâu anh tìm kiếm hiện đang ở thôn 4, xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Ngày 6-7-2008, chúng tôi quyết định bắt xe về thôn 4, xã Thủy Dương để được gặp trực tiếp người nữ tự vệ ấy.
Trong ngôi nhà cấp 4 dựng dưới sườn đồi, ngay cạnh quốc lộ 1, bà Ngô Thị Thương kể lại cho chúng tôi những kỷ niệm không bao giờ quên trong cuộc đời. Bà sinh năm 1947. Quê ở Hương Thủy (Thừa Thiên - Huế) nhưng cả bố và mẹ đều đi bộ đội, sau chuyển về lâm trường Kỳ Phương (về sau sáp nhập với lâm trường Cẩm Xuyên thành lâm trường Cẩm Kỳ) nên bà được sinh ra ở đó. Năm 1963, học hết lớp 7/10, Ngô Thị Thương xin vào làm công nhân cho lâm trường Cẩm Kỳ. Đó cũng là thời gian máy bay Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tình hình an ninh ở địa bàn huyện Cẩm Xuyên nói riêng cũng như Hà Tĩnh nói chung rất phức tạp. Trên bộ thì máy bay oanh tạc, dưới biển thì biệt kích, thám báo thường xuyên đột nhập. Toàn lâm trường vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ địa bàn. Đội tu bổ rừng của Ngô Thị Thương được biên chế thành một tiểu đội tự vệ. Một “tổ ba người” gồm Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Minh và Nguyễn Đình Bé được biên chế một khẩu K44.
Vào tháng 5-1968, Mỹ thực hiện ném bom hạn chế ở miền Bắc, tập trung đánh phá đường giao thông khu vực Nghệ An - Hà Tĩnh vì chúng quan niệm: “Nghệ Tĩnh là vùng cán xoong, đánh vỡ cái cán xoong thì lực lượng giải phóng miền Nam sẽ “vỡ nồi cơm” - mất sức chiến đấu”. Đội tự vệ lâm trường Kỳ Phương được giao nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường 21 và 22, thuộc hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh, nằm ở phía Nam “tọa độ chết” Ngã ba Đồng Lộc.
Đội tự vệ của Thương được huấn luyện khá kỹ về đặc điểm, cấu tạo của từng loại máy bay Mỹ. Rất nhiều lần, các loại “thần sấm”, “con ma” đem bom xuống rải dọc đường 21, làm cháy rất nhiều xe hàng của bộ đội. Những lần như vậy, Thương cùng đồng đội lại vác súng trường ra bắn tới tấp, đan lưới lửa tầng dưới để đe dọa, không cho máy bay địch dám hạ thấp độ cao. Tuy có tác dụng nhưng Thương cảm thấy “tức tức” vì với khẩu súng trường thì không làm gì được máy bay giặc. Qua rất nhiều phiên canh trực, cô theo dõi và phát hiện ra quy luật hoạt động của địch: Cứ mỗi lần bay qua núi Thiên Nhẫn, máy bay địch lại sà xuống rất thấp rồi bay dọc thung lũng theo một đường cố định tìm mục tiêu ném bom thuộc khu vực đường 21 và 22. Thương nghĩ, nếu phục kích ở trong eo núi, chờ máy bay địch hạ đến độ thấp nhất thì tầm bắn hiệu quả của K44 có thể phát huy được tác dụng.
Nghĩ là làm. Hôm ấy, vào trung tuần tháng 5-1968, tổ ba người của Thương đi làm như mọi ngày. Theo thứ tự luân phiên, Thương đeo khẩu K44 đi theo trực chiến đấu. Đoán biết máy bay thế nào cũng đến đánh phá, Thương đã ngắm sẵn một vị trí ở bãi Hạ Nêu để đón lõng địch. Đến trưa, cả tổ đang trên đường về lâm trường ăn trưa thì có tiếng máy bay địch gầm rú trên bầu trời. Thương chạy ngay vào vị trí chọn trước, gác nòng súng lên một chạc cây cụt làm điểm tựa. Một chiếc "con ma" lao tới, bay rà rà dọc theo đường 21 tìm kiếm những chiếc xe của bộ đội ta đang ngụy trang hai bên đường. Khi chiếc máy bay bay qua đầu Thương lần thứ nhất, cô đã ngắm bắn đón nhưng bị trượt. “Tên giặc trời” lại vòng lại lần thứ hai, khi vừa đi qua hẻm núi, Thương bình tĩnh bắn tiếp phát nữa. Trong khoảnh khắc, cô cảm thấy viên đạn dường như đã trúng đích nhưng không quan sát thấy gì. Từ đuôi máy bay, một dải khói đen xì bỗng phun ra xối xả. Bỗng Thương nhìn thấy một vật gì đó bật ra khỏi máy bay. Cô hét lên: “Bom đó, bay ơi nằm xuống”. Nhưng Bé và Minh bỗng reo lên: “Cháy rồi. Thương ơi. Cháy rồi”. Thương nhìn lên bầu trời, chiếc máy bay lao được chừng 800 mét nữa thì đâm sầm vào núi, một tiếng nổ dữ dội vang lên.
Thương xốc lại khẩu súng, cùng các bạn chạy băng băng trên những vạt rừng để bám theo vật thể lạ bật ra từ máy bay. Thì ra đó là tên phi công đã biết máy bay trúng đạn nên nhảy dù, chứ không phải địch thả bom như Thương nghĩ. Tổ ba người của Thương tiến đến sát chiếc dù mà tên phi công vẫn không mảy may hay biết. Hắn đang lúi húi gỡ mình khỏi chiếc dù thì Thương đã rón rén đến gần, gí mũi súng vào gáy, bắt hắn giơ tay hàng. Trong lúc đồng đội đang cắt dây dù để trói tên phi công thì Thương bỗng phát hiện thấy một chiếc máy rất lạ đang phát ra những tín hiệu “tích tè, tích tè”. Đoán rằng đó có thể là tín hiệu cầu cứu của tên phi công, một anh tự vệ đã nhanh tay dùng dao rựa chặt đôi chiếc máy. Lúc này, rất đông thanh niên xung phong, dân quân tự vệ ở khu vực xung quanh đã cơ động đến hỗ trợ bắt giặc lái Mỹ. Họ vừa trói xong tên giặc thì một bầy máy bay địch từ đâu bâu đến, quần lượn trên đầu núi Thiên Nhẫn, tìm đồng bọn để cứu. Không tìm thấy, chúng xả bom bi như mưa xuống khu vực này khiến Thương và mọi người phải tìm nơi ẩn nấp. Tan trận mưa bom, tên giặc lái được một tổ thanh niên xung phong giải đi.
Mấy ngày sau, đồng chí Nguyễn Triều, Huyện đội trưởng huyện đội Cẩm Xuyên về lâm trường mời Ngô Thị Thương và Đội trưởng Nguyễn Huy Thàng về huyện trình bày lại sự việc và hướng dẫn Thương viết báo cáo thành tích. Thương nhớ là hôm đó, huyện thưởng cho lâm trường một con bò để làm thịt, liên hoan mừng chiến thắng. Còn Thương được mời đi dự hội nghị rút kinh nghiệm bắn máy bay bay thấp. Tại hội nghị, cô đã được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Giờ giải lao, cô còn được Đại tướng hỏi chuyện và khi nghe Thương báo cáo về “quy luật” hạ thấp độ cao để tìm mục tiêu rải bom của địch, Đại tướng đã rất vui khen Thương là “nhà triết học”. Cũng tại hội nghị này, Thương được tặng bằng khen về thành tích bắn rơi máy bay. Ít lâu sau đó, Bác Hồ cũng gửi tặng Thương huy hiệu của Người. Chiếc huy hiệu của Bác tặng, Ngô Thị Thương còn giữ cho đến tận bây giờ. Chiếc bằng khen, vì điều kiện chiến tranh và rất nhiều lần chuyển nhà nên cô đã để thất lạc. Tuy nhiên, trong lý lịch cán bộ của cô vẫn còn ghi rõ chi tiết được tặng tấm bằng khen này.
Sau lần lập được chiến công ấy, Ngô Thị Thương được đơn vị cử đi học nghiệp vụ kế toán và trở về làm kế toán lâm trường. Cô được lãnh đạo lâm trường nhận xét là người “luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”, nhiều lần được đơn vị bầu là chiến sĩ thi đua. Năm 1970, cô xây dựng gia đình nhưng vì nhiều lý do khác nhau, được ít năm thì cô ly hôn. Lúc này, hoàn cảnh gia đình Thương rất khó khăn. Bố mẹ cô già yếu, không người chăm sóc, người anh cả của Thương cũng đi làm cách mạng, bị địch bắt, tù đày. Quê nhà Thừa Thiên - Huế lúc đó chưa giải phóng, một mình Thương gắng gượng chăm sóc bố mẹ già và ba đứa con nhỏ. Năm 1982, ông cụ thân sinh qua đời, Thương đưa mẹ và các con trở về quê cũ ở thôn 4, xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy (Thừa Thiên - Huế) sống nhờ trong nhà người anh trai. Mãi đến năm 1986, mẹ con chị Thương mới mua được một miếng đất cạnh nghĩa trang của thôn làm nơi ở riêng. Cuộc sống khó khăn cùng sự “di cư” đã làm đứt sợi dây liên lạc giữa chị với các đồng đội trong thời kỳ tuổi trẻ sôi nổi. Đó cũng chính là lý do khiến những nỗ lực tìm kiếm của anh Đậu Xuân Côi gặp khó khăn và nếu không có sự quyết tâm thì khó có thể giúp Đại tướng được toại nguyện.
Ngày 26-4-2004, đúng lúc cả nước đang sôi nổi tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vô cùng bận rộn với các buổi hội thảo, gặp gỡ, trả lời phỏng vấn báo chí trong nước và quốc tế nhưng khi biết tin đã tìm được Ngô Thị Thương, Đại tướng đã mời chị ra thăm. Buổi gặp gỡ diễn ra rất xúc động và Ngô Thị Thương hầu như chẳng nói được gì, những giọt nước mắt cứ tuôn trào. Vì bận tiếp các đoàn khách khác, Đại tướng bảo chị Thương về nghỉ và hôm sau vào ăn cơm với Đại tướng. Bữa cơm thân mật ngày 27-4-2004, ngoài Đại tướng và phu nhân còn có cả chị Võ Hồng Anh, anh Võ Điện Biên và mọi người trong gia đình. Cuối buổi, khi mọi người chuẩn bị ra về, vợ chồng Đại tướng tặng chị Thương một tấm vải đẹp để may áo dài. Chị Thương nói, đó là phần thưởng vô cùng to lớn mà chị không nghĩ mình được nhận. Tiễn chúng tôi ra ga Huế mua vé tàu về Hà Nội, chị Thương còn dặn chúng tôi nếu có viết bài về chị nhớ viết cho chính xác, đừng phóng đại vì như thế thì chị ngượng lắm. “Điều tôi muốn nói nhất là tôi không thể ngờ, Đại tướng - vị Tổng tư lệnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng mà vẫn nhớ đến một người tự vệ với thành tích nhỏ bé như hạt cát của tôi” - chị Thương nói với chúng tôi như vậy.
Bài và ảnh: HỒNG HẢI
Phần I-“Cô tự vệ Đồng Lộc” trong ký ức Đại tướng