 |
Bà con Pác Bó (Cao Bằng) vô cùng xúc động được gặp lại Bác Hồ sau 20 năm xa cách (20-2-1961). |
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám đã đưa đến việc thành lập bộ máy chính quyền trong cả nước từ trung ương đến cơ sở. Chính quyền là công cụ sắc bén để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ quyền độc lập tự do. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ hàng đầu là phải củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện những tiêu cực trong hoạt động của nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Người đã nhiều lần viết thư huấn thị “cho các đồng chí tỉnh nhà”, “cho Ủy ban hành chính (UBHC) các kỳ, tỉnh, huyện, làng” khuyên nhủ cán bộ cảnh giác, khắc phục những biểu hiện về quan liêu, lãng phí, tham ô, “quên cả thanh liêm đạo đức”. Trong bức thư gửi UBHC các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã chỉ ra những “lỗi lầm rất nặng nề” mà nhiều cán bộ công chức đã phạm phải khi chính quyền nhà nước còn non trẻ. Đó là:
- Trái phép… có lúc vì tư thù tư oán mà bắt bớ tịch thu làm cho dân oán thán.
- Cậy thế: cậy thế mình ở trong nhà nước để ngang tàng muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân.
- Hủ hóa: ăn tiêu xa xỉ, thậm chí lấy của công dùng vào việc tư… Ông ủy viên đi xe hơi rồi bà ủy viên, cho đến các cô, các cậu ủy viên cũng dùng xe hơi của công.
- Tư túng: kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu mình không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài.
- Chia rẽ: bênh lớp này chống lớp khác. Không biết làm cho các tầng lớp nhân dân, nhân nhượng hòa thuận với nhau.
- Kiêu ngạo: tưởng mình ở cơ quan chính phủ là thần thánh rồi, lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” (1).
Để khắc phục những lỗi lầm đó, một mặt kêu gọi sự tự phê bình và phê bình để sửa chữa, nhưng mặt khác Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng sự xây dựng thiết chế pháp luật để thanh trừ những phần tử tha hóa, dùng công cụ pháp lý sắc bén đủ hiệu lực cần có để giữ vững sự trong sạch cho chính quyền cách mạng.
Ngày 23-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành sắc lệnh số 64-SL về việc thành lập Ban thanh tra đặc biệt và một tòa án đặc biệt có nhiệm vụ giám sát và xét xử các sai phạm của các nhân viên, từ trong UBHC các cấp đến cơ quan cao nhất của các bộ.
Sắc lệnh có 6 điều.
Điều thứ 1: Chính phủ sẽ lập ngay một ban thanh tra đặc biệt có ủy nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và nhân viên của các UBHC, các cơ quan của Chính phủ.
Điều thứ 2: Ban thanh tra có toàn quyền:
- Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân
- Điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của các UBHC hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát.
- Đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBHC của Chính phủ đã phạm lỗi, trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay tòa án đặc biệt xét xử.
- Tịch biên hoặc niêm phong những tang vật và mọi cách điều tra để lập một hồ sơ mang phạm nhân ra tòa án đặc biệt.
Ban thanh tra có thể truy tố cả các việc đã xảy ra trước ngày ban hành sắc lệnh này.
Ban thanh tra có quyền đề nghị lên Chính phủ những điều cần sửa đổi trong các cơ quan.
Khi Ban thanh tra đặc biệt đã lập xong được hồ sơ truy tố, thì các vụ việc sẽ được đưa ra xét xử, do một tòa án đặc biệt.
Điều thứ 3: Sẽ thiết lập ngay tại Hà Nội một tòa án đặc biệt để xử những nhân viên của các UBHC hay các cơ quan chính phủ do Ban thanh tra truy tố.
Điều thứ 4: Tòa án đặc biệt có ông Chủ tịch chính phủ lâm thời làm chánh án và hai ông: Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm hội thẩm.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ là hội thẩm thuyết trình. Một ủy viên trong Ban thanh tra đứng buộc tội. Viên lục sự sẽ do ông chưởng lý tòa thượng thẩm Hà Nội chỉ định.
Điều thứ 5: Bị cáo có thể tự bào chữa lấy hay nhờ luật sư bênh vực, ông hội thẩm thuyết trình có thể cử một luật sư ra bào chữa không cho bị cáo.
Điều thứ 6: Tòa án đặc biệt có quyền quyết định án, có thể tuyên án tử hình. Những án tuyên lên sẽ thi hành trong 48 giờ đồng hồ.
Bản sắc lệnh này ngoài chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có hai chữ ký: Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh.
Với 6 điều khoản như trên trong sắc lệnh đã hình thành nên một cơ chế chặt chẽ có hiệu lực, kịp thời, ngăn ngừa, thanh trừ những “ông quan cách mạng” làm hại đến chính quyền còn non trẻ của nước ta. Với quan điểm: “cán bộ thanh tra như cái gương để người ta soi vào mặt gương mờ thì không soi được” (2). Trên cơ sở thực tiễn lịch sử, Người quyết định: “Ban thanh tra không cần nhiều người. Lúc này hai người là đủ. Một vị cao tuổi, là vị quan có tính liêm khiết của triều đình cũ, là cụ Bùi (3), một người thanh niên hăng hái mà trong nước ai cũng biết tiếng là chú (4). Người già, người trẻ dựa vào nhau mà làm việc, nhất định việc thanh tra sẽ làm tốt, và cần làm ngay” (5).
Sự ra đời của một Ban thanh tra đặc biệt có quyền hạn rộng lớn lại do những người có uy tín, đạo đức thực hiện đủ đảm bảo tính công bằng, khách quan, có hiệu lực và hiệu quả công tác cao. Song song với sự ra đời của ban thanh tra đặc biệt việc thiết lập một tòa án đặc biệt với thành phần chánh án và hội thẩm như trên để đứng trên mọi cấp mà xét xử công minh đã gạt được sự nghi ngờ của mọi người về sự thiếu công tâm, không để tòa án tỉnh xử việc của quan chức tỉnh, tòa án địa phương xử việc của quan chức địa phương ngang cấp nên nể nang bao che cho nhau. Đây cũng là điều mà ngày nay thường nói tòa án xử theo pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật, không một ai có quyền can dự vào, bảo đảm để quyết định của tòa án được hoàn toàn có sức mạnh, đủ hiệu lực để giữ yên lòng dân đề cao phép nước.
-------------------------------------------
1: Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 1995, tr. 56
2: Tạp chí Thanh tra, số 11-1995
3: Cụ Bùi Bằng Đoàn
4: Tức nhà thơ Cù Huy Cận
5: Kỷ yếu Bác Hồ với thanh tra, NXB Thống kê Hà Nội. 1991, tr. 9-10
TS Lê Ban