Bước vào kháng chiến toàn quốc, hình thái chiến trường là ta và địch đóng xen kẽ. Hai khả năng đặt ra lúc này là: Ta rút lực lượng ra ngoại vi bao vây địch, hoặc rút hẳn về căn cứ nông thôn, miền núi; Tổ chức đánh địch tại chỗ. Ta chủ trương "bảo toàn lực lượng, tiêu hao địch, giữ gìn đất đai trong một phần nào và ngăn chặn mặt trận lan rộng nhanh chóng"
(1). Tuy nhiên, "
việc bảo toàn lực lượng bao giờ cũng đi đôi với việc tiêu hao quân địch, có chiến đấu mới bảo toàn được thực lực, chứ không thể hiện được bằng cách lui quân chạy dài"
(2). Thực hiện lui quân, địch dễ dàng phát hiện sự di chuyển của ta, phương tiện cơ động của chúng sẽ nhanh chóng truy kích, chặn đầu, khoá đuôi, bao vây chia cắt để tiêu diệt. Ta chủ trương chiến đấu tại chỗ nhằm "
ngăn chặn mặt trận lan rộng quá chóng... giành lấy thời gian và ảnh hưởng chính trị để động viên dân chúng"
(3).
ta đã chọn kiểu chiến tranh mà quân Pháp rất lo sợ, điều mà Lơ-cle từng cảnh báo chính phủ Pháp và Xanh-tơ-ni viết rõ: "Bảo lưu tại Hà Nội một chính phủ là đáng ngại, nhưng nói cho cùng thì thà cứ ở đây, họ còn ít đáng sợ hơn, so với việc họ tiến hành chiến tranh du kích ở miền thượng du" (4). Như thế, quân và dân ta đã chủ động mở đầu, lựa chọn chiến trường, chủ động thực hành và kết thúc cuộc chiến đấu tại đô thị bắc vĩ tuyến 16. |
Cuộc chiến đấu diễn ra tại một số nơi, như: Bắc Ninh, Bắc Giang, Huế…địch co vào cố thủ. Tại nhiều nơi khác, chúng dựa vào ưu thế của vũ khí và phương tiện cơ động, phản kích dữ dội. Lực lượng ta không tránh khỏi lúng túng. Tuy nhiên, với tinh thần bình tĩnh, sáng suốt của lực lượng tại chỗ và sự chỉ đạo của Bộ Tổng chỉ huy, quân và dân ta từng bước điều chỉnh thế bố trí và cách đánh. Tại Hà Nội, ta rút khỏi một số vị trí khó giữ như Bắc Bộ Phủ, Toà thị chính, Nhà Bưu điện.., thu lực lượng về Trung tâm Liên khu 1, dựa vào địa thế trụ bám và cơ động đánh địch. Tại
Nam Định lần đầu tiên quân và dân ta đối phó có hiệu quả với chiến thuật nhảy dù của địch, bỏ cách vây đánh địch trong công sự kiên cố, chuyển sang bao vây vòng ngoài, kết hợp đánh nhỏ và quấy rối địch. Tại Đà Nẵng, ta cũng chuyển từ cách đánh ít hiệu quả trong nội thành, chuyển sang lợi dụng địa thế bao vây địch. Và khi điều kiện duy trì cuộc chiến đấu ở đô thị không còn (địch được tăng viện, tiếp tế của ta khó khăn và lực lượng bị tiêu hao...) ta đã tổ chức rút khỏi đô thị về hậu phương an toàn, tiến hành kháng chiến lâu dài. Hàng nghìn bộ đội và tự vệ từ đô thị ra khỏi vòng vây của địch về hậu phương an toàn là một thành công kỳ diệu của cuộc chiến đấu.
Bằng hành động kể trên, ta đã chọn kiểu chiến tranh mà quân Pháp rất lo sợ, điều mà Lơ-cle từng cảnh báo chính phủ Pháp và Xanh-tơ-ni viết rõ: "
Bảo lưu tại Hà Nội một chính phủ là đáng ngại, nhưng nói cho cùng thì thà cứ ở đây, họ còn ít đáng sợ hơn, so với việc họ tiến hành chiến tranh du kích ở miền thượng du" (4). Như thế, quân và dân ta đã
chủ động mở đầu, lựa chọn chiến trường, chủ động thực hành và kết thúc cuộc chiến đấu tại đô thị bắc vĩ tuyến 16.
Cách đánh luôn luôn có ý nghĩa quyết định đối với kết quả chiến đấu. Có thế trận và lực lượng, có tinh thần dũng cảm, mưu trí, lại phải có cách đánh đúng, phù hợp điều kiện cụ thể về tương quan lực lượng, về địa lý quân sự, hạn chế được chỗ mạnh, khoét sâu được chỗ yếu của địch mới giành được hiệu quả chiến đấu tốt. Ta tổ chức đánh địch ở tất cả những địa bàn mà quân Pháp đứng chân (tại đô thị bắc vĩ tuyến 16), có sự hiệp đồng của quân và dân ta ở nam vĩ tuyến 16. Cùng lúc đánh địch ở khắp nơi, ta đã làm cho quân địch khó có khả năng chi viện, hỗ trợ nhau, khó tập trung lực lượng đối phó với ta ở một địa bàn nhất định. Đánh địch khắp nơi, ta còn huy động được sức người, sức của tại chỗ và của mọi địa phương vào cuộc chiến, của vùng chưa có địch chi viện cho mặt trận. Đây chính là chỗ mạnh của chiến tranh nhân dân, của thế trận toàn dân đánh giặc bước đầu phát huy tác dụng.
Ở những mức độ khác nhau, cuộc chiến đấu ở từng địa bàn đã kết hợp được hình thức phòng ngự và tiến công, giữa đánh ở bên trong và đánh từ bên ngoài. ở đây, "Ta đã sáng tạo ra cách đánh mà sau này gọi là du kích trận địa chiến. Đó là kết hợp đánh du kích với đánh trận địa, nhưng trận địa ở đây cũng mang tính chất du kích" (5).
Cuộc chiến đấu tại đô thị bắc vĩ tuyến 16 mở đầu kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp đã hoàn thành xuất sắc những yêu cầu cơ bản do chiến lược đặt ra: "Đã tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận, giam chân địch trong các đô thị một thời gian tương đối dài (từ một đến ba tháng), tạo điều kiện chuyển đất nước vào kháng chiến, tiến hành những việc cần thiết để kháng chiến lâu dài; Đã đảm bảo an toàn cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến các cấp, bảo tồn và phát triển lực lượng vũ trang; Phát động được một kháng chiến toàn dân...đoàn kết, quyết tâm, tự giác chiến đấu để giữ vững nền độc lập mới giành được" (6).
Cuộc chiến đấu tại đô thị bắc vĩ tuyến 16 đã mở đầu kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp thắng lợi. ở đây truyền thống yêu nước được kế thừa và phát huy, kết tinh thành tinh thần chủ động, tiến công đúng thời cơ lịch sử. Đây còn là cuộc chiến tiêu biểu về những sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, chỉ đạo tác chiến chiến lược và các hình thức chiến thuật, mà "trận đánh ở Thủ đô đã trở thành biểu tượng của thời này" (7). Cuộc chiến đấu tại đô thị bắc vĩ tuyến 16 mở đầu kháng chiến toàn quốc cách đây 60 năm mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta, lịch sử Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội với một nét son chói lọi về nghệ thuật mở đầu sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Thiếu tướng, PGS TRỊNH VƯƠNG HỒNG
Viện trưởng Viện lịch sử quân sự Việt Nam
(1)(2)(3) Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng và Quân đội nhân dân. Ba giai đoạn chiến lược, NXB Vệ quốc quân, 1959, tr 14, 15; (4) J.Xanh-tơ-ni,Sđd, tr 207; (5) Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tổng kết tác chiến chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975), NXB QĐND, H., 2005.