Với vị trí địa lý - chiến lược - chính trị quan trọng với khu vực và quốc tế, Việt Nam luôn là mục tiêu thôn tính, xâm lược của các thế lực hiếu chiến, khi chúng từ lục địa muốn vươn ra biển hoặc từ biển muốn xâm nhập vào lục địa. Hàng chục cuộc kháng chiến chống xâm lược đã diễn ra trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, ở mỗi cuộc chiến, cha ông ta đã có cách mở đầu khác nhau. Lý Thường Kiệt mở đầu cuộc tự vệ bằng đòn chủ động đánh sang đất địch, phá cơ sở xuất phát tiến công của chúng. Nhà Trần và Nghĩa quân Tây Sơn lại mở đầu bằng cuộc rút lui chiến lược, bỏ ngỏ kinh thành Thăng Long, sau đó tổ chức phản công quét sạch quân thù. Mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946) là thêm một phương thức mở đầu công cuộc giữ nước của dân tộc ta.

Giới hiếu chiến Pháp nuôi mưu đồ xâm lược trở lại Đông Dương từ khi nước Pháp còn đang bị phát xít Đức chiếm đóng, và họ xem đây chỉ là việc trở lại "miền đất của mình". Các bản tuyên bố của người đứng đầu Chính phủ lưu vong vào tháng 12-1943 tại An-giê, tháng 1-1944 tại Bra-da-vin và Chính phủ lâm thời Pháp (24-3-1945) tại Pa-ri thể hiện rõ mưu đồ đó. Tuy nhiên, quyết định của những người đứng đầu chính phủ các nước Liên Xô, Mỹ, Anh ở Pôt-xđam (tháng 7 và 8-1945) lại phân công quân Anh vào Nam Đông Dương với vĩ tuyến 16 làm phân giới, còn quân Tưởng vào Bắc Đông Dương. Như thế, bề ngoài, và cũng là về pháp lý, qua nghị quyết trên, Pháp bị gạt khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, vì lợi ích thực dân, quân Anh luôn ủng hộ và tạo điều kiện cho Pháp trở lại Đông Dương. Do biến chuyển của tình hình thế giới, vì lợi ích riêng của từng nước và lợi ích chung của chủ nghĩa thực dân, cả Mỹ và Tưởng dần chuyển sang ủng hộ, tạo điều kiện cho thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Bên cạnh bản chất thực dân và tạo được đồng thuận với Anh, Mỹ, Tưởng, Pháp tái chiếm Đông Dương còn nhằm giải quyết nhu cầu bức xúc vơ vét, bóc lột của cải để tái thiết nước Pháp. Xanh-tơ-ni viết: "Mảnh đất đẹp đẽ này (tức Đông Dương - Việt Nam), nếu ta chộp ngay lấy từ đầu, thì sẽ trở thành một mối lợi vô cùng lớn lao có thể đóng góp khá nhiều trong việc phục hồi kinh tế của nước Pháp"(1). Như thế, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp, bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám đặt ra một cách tất yếu, không có con đường nào khác.

Trong khi theo dõi diễn biến của chiến tranh thế giới thứ II, lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng giành độc lập, tự do, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tập trung phân tích về các thế lực đế quốc, phát xít, nhất là âm mưu của chúng với Đông Dương, Việt Nam. Ở chiến trường châu Á - Thái Bình Dương, phát xít Nhật bại trận, có lợi ích liên quan và nhòm ngó Đông Dương là Mỹ, Anh, Pháp và Trung Hoa Dân quốc. Mặc dù có nhiều đối tượng như trên, nhưng trong Hội nghị toàn quốc của Đảng tháng 8 năm 1945, trước Tổng khởi nghĩa, Đảng đã chỉ rõ: "Quân Đồng Minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị của chúng ở Đông Dương"(2). Chủ trương đối phó được đề ra là, một mặt lợi dụng mâu thuẫn Đồng Minh; mặt khác ra sức xây dựng lực lượng toàn diện, vì "chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi giữa ta và Đồng Minh"(3). Khi quân Đồng Minh đã vào nước ta với danh nghĩa giải giáp quân Nhật và quân Pháp núp dưới bóng quân Anh vào miền Nam, gây hấn ở Sài Gòn - Chợ Lớn, mở đầu chiến tranh xâm lược, trong Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25 tháng 11 năm 1945), Đảng ta khẳng định: "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng"(4). Đầu năm 1946, Chính phủ ta ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp nhằm giảm bớt kẻ thù và giành thêm thời gian xây dựng chế độ mới, xây dựng lực lượng về mọi mặt. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Ký hiệp định đình chiến này không phải là đã hết chiến tranh đâu... Trái lại, hơn bao giờ hết, ta phải luôn luôn chuẩn bị để bồi dưỡng lực lượng, nâng cao tinh thần kháng chiến của toàn dân, để đối phó với những việc bất ngờ bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra. Tinh thần kháng chiến, sự chuẩn bị chu đáo phải là thường trực, tiếp tục, không một giây phút nào ngừng(5)Sự chủ động, nhạy bén nắm bắt tình hình, sớm phát hiện kẻ thù chủ yếu và nguy cơ chiến tranh xâm lược, ra sức chuẩn bị đất nước sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do là một trong những điểm đặc sắc của cuộc kháng chiến lần này.

Mặc dầu xác định rõ thực dân Pháp rắp tâm xâm lược trở lại nước ta, nhân dân ta cũng không thể khởi sự sớm hơn. Bởi lẽ, nước Cộng hòa non trẻ với bao khó khăn chồng chất do chế độ cũ để lại, việc chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới chưa được là bao; chấp nhận chiến đấu với một kẻ thù đầy kinh nghiệm xâm lược, am hiểu đất nước và con người Việt Nam và có vũ khí, trang bị hiện đại sẽ khó tránh khỏi mạo hiểm và rơi vào tình thế bất lợi. Tuy nhiên đến những ngày cuối năm 1946, tình thế đã khác. Đi đôi với hoạt động đối ngoại nhằm thủ tiêu và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, quân và dân ta đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt, thực lực cách mạng được phát triển thêm, quân và dân ta sẵn sàng hành động khi tình thế cho phép.

Trong khi đó, thực dân Pháp nóng lòng muốn đưa chiến tranh xâm lược lên quy mô mới. Trong báo cáo gửi Đác-giăng-li-ơ ngày 14 tháng 10 năm 1946, Tướng Va-luy đưa ra một "giải pháp toàn bộ" và đề nghị: "Đừng bằng lòng với việc chế ngự các cuộc tiến công của bọn phiến loạn (tức Việt Minh - TG chú), mà trái lại phải thực hiện một áp lực thật căn bản đối với bọn phiến loạn ấy bằng cách chủ động mở những chiến dịch quy mô tại Hà Nội và tại Trung Kỳ"(6). Tức là quân Pháp chủ trương đánh trước.

Nhưng đó mới là ý đồ. Có thể đánh trước, mở rộng chiến tranh xâm lược quy mô lớn được không lại tùy thuộc nhiều điều kiện khác. Vào cuối năm 1946, thực dân Pháp vấp phải thiện chí và phương thức đấu tranh có lý, có tình của ta; nước Pháp đang khủng hoảng nội các, vả lại điều quan trọng là họ chưa có đủ lực lượng cần thiết như văn kiện chỉ đạo của Va-luy (8-12-1946) đã nêu, mà phải chờ "một phần quân tăng viện từ mẫu quốc được chờ đợi đã đến nơi, nghĩa là khoảng 15-1-1947... Như vậy, trước khi quân tăng viện đến, điều quan trọng là tránh làm lan rộng cuộc xung đột"(7).

Tổng hòa các yếu tố về phía ta và Pháp kể trên đã tạo nên thời cơ thích hợp cho việc phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Thời cơ ấy xuất hiện và tồn tại từ khoảng cuối tháng 12 năm 1946 đến giữa tháng 1 năm 1947. Vào thời khắc ấy, bộ mặt xâm lược của thực dân Pháp đã lộ rõ, thiện chí hòa bình của Đảng và Nhà nước ta thể hiện ngời sáng; Pháp dù rất muốn nhưng chưa đủ lực lượng để mở rộng xâm lược quy mô lớn, còn quân và dân ta đã sẵn sàng đứng lên bảo vệ độc lập, tự do. Nói như V.I.Lê-nin: "Khi những điều kiện khách quan cho phép, khi kinh nghiệm về chính sách thỏa hiệp chỉ ra rằng quần chúng đã công phẫn và sự tiến công sẽ biểu hiện bước ngoặt đó, thì phải thực hiện sách lược tiến công một cách thẳng tay"(8). Với sự phối hợp của chiến trường Nam Bộ, quân và dân tại đô thị bắc vĩ tuyến 16 đồng loạt nổ súng đánh địch, chủ động tiến công đúng thời cơ và do đó giành được quyền chủ động làm cho thế và lực của chiến tranh cách mạng tăng lên gấp bội. Ở đây, ta đã biến thời gian, thời cơ thành lực lượng, biến lực nhỏ thành lực lớn.

Thiếu tướng PGS-TS.TRỊNH VƯƠNG HỒNG

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

-----------------------------------------

(1). J.Xanh-tơ-ni: Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ, Pari, 1967, lưu Thư viện Trung ương Quân đội, bản dịch, trang 47; (2). Văn kiện Đảng 1930-1945, H.1977, trang 413; (3), (4). Văn kiện Đảng 1945-1954, Ban NCL Đảng Trung ương xuất bản, H.1978, tập I, trang 27; (5). Theo Võ Nguyên Giáp: Những năm tháng không thể nào quên. NXB Quân đội nhân dân, H.1974, trang 212.; (6) Dẫn theo Phi-líp Đơ-vi-le: Pari – Sài Gòn – Hà Nội, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 1993, trang 323; (7) Dẫn theo Phi-líp Đơ-vi-le: Pari – Sài Gòn – Hà Nội, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 1993, trang 323; (8) C.Mác, Ph.Ăng-ghen: Quan điểm cơ bản về khởi nghĩa, chiến tranh và quân đội, NXB Quân đội nhân dân, H.1973.