Tháng 3-1947, thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ chỉ huy Khu 3 đã điều động những đơn vị chiến đấu xuất sắc trên các mặt trận Hải Phòng - Kiến An - Đồ Sơn, Đường số 5, Hải Dương, Hưng Yên về thành lập tiểu đoàn trực thuộc Bộ. Tiểu đoàn được ưu tiên trang bị những vũ khí mạnh nhất lấy được của địch và lựa chọn bổ sung những cán bộ đã qua chiến đấu có nhiều thành tích. Quân số của tiểu đoàn khoảng 1.200 người tổ chức thành 3 đại đội xung kích với một đại đội trợ chiến cùng với cơ quan tiểu đoàn và các đơn vị trực thuộc mang phiên hiệu Tiểu đoàn 150.
Ngày 14-4-1947, Tiểu đoàn tập trung ở sân vận động xã An Khánh, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên làm lễ thành lập đồng thời cũng là lễ xuất quân lên Việt Bắc. Tiểu đoàn trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy với phiên hiệu mới là Tiểu đoàn 160, bố trí dọc theo dãy Tam Đảo từ Quân Chu đến Đèo Khế ra tới Phú Minh, làm nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài phía Nam cho An toàn khu Định Hóa.
Địch tấn công Việt Bắc Thu Đông 1947, Tiểu đoàn đã làm tròn nhiệm vụ góp phần bảo vệ an toàn khu và tích cực giúp dân khắc phục hậu quả tàn phá của địch. Bị thất bại trong chiến dịch Việt Bắc, địch phải chuyển chiến lược từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang “chiếm đóng và bình định". Vì thế yêu cầu tác chiến của Quân đội ta cũng phải phát triển tiến lên đánh công kiên diệt cứ điểm. Với truyền thống chiến đấu và kết quả luyện quân, Tiểu đoàn được lựa chọn là đơn vị điểm để nghiên cứu huấn luyện thực hành đánh cứ điểm. Đầu mùa hè 1948, trên một quả đồi ở Phú Bình xuất hiện một "cứ điểm" có lô cốt, ụ súng và hàng rào lông nhím bao quanh... Đó là sáng kiến của Tiểu đoàn trưởng Vũ Yên cho bộ đội dựng lên mô hình này, lập theo mẫu đồn địch để nghiên cứu và luyện cách đánh. Tháng 7-1948, Tiểu đoàn được tham dự chiến dịch Đường số 3 với phiên hiệu Tiểu đoàn 11 và được giao nhiệm vụ đánh đồn Phủ Thông. Đồn nằm trên địa bàn thị trấn Phủ Thông, huyện Bạch Thông, cách thị xã Bắc Kạn 19km về phía bắc - đông bắc. Đồn Phủ Thông do một đại đội bộ binh và một trung đội trợ chiến thuộc Trung đoàn 3 lê dương Pháp chiếm đóng, quân số khoảng 150 tên do một đại úy chỉ huy, với trang bị vũ khí, hệ thống công sự, vật cản vào loại cứ điểm mạnh nhất lúc bấy giờ.
Lực lượng của Tiểu đoàn 11 trực tiếp tham gia chiến đấu có các Đại đội xung kích 120, 122, 124 và Đại đội trợ chiến 126 cùng các phân đội trực thuộc tiểu đoàn. Tiểu đoàn được tăng cường một đại đội sơn pháo 75mm với 2 khẩu của Tiểu đoàn 410 và các lực lượng phối hợp là Tiểu đoàn 55 thuộc Trung đoàn 72; Đại đội Ba Bể và du kích địa phương... do Tiểu đoàn trưởng Vũ Yên, Chính trị viên Mai Nhân và Tiểu đoàn phó Nguyễn Đăng Quỳnh chỉ huy.
Ngày 24 và 25-7-1948, trời mưa tầm tã nhưng việc chiếm lĩnh trận địa, triển khai đội hình vẫn được bí mật an toàn cho đến giờ nổ súng. Đúng 17 giờ 30 phút ngày 25-7-1948 trận đánh bắt đầu. Pháo binh, súng cối của ta bắn dồn dập vào đồn diệt một số địch, phá huỷ nhiều ụ súng, tường rào... Bị bất ngờ địch không kịp đối phó. Lợi dụng thời cơ, bộ đội ta dùng thang phên vượt qua hàng rào vào sát chân tường, nhảy vào đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Các tiểu đội xung kích, mỗi tiểu đội có một tiểu liên, 2 súng trường còn là dùng mác xung kích (dao tông cắm vào đoạn tre cứng) và một số lựu đạn ào ạt nhảy vào. Các trung đội tiếp theo phát triển sâu vào trong diệt các ổ đề kháng, lần lượt đánh chiếm các nhà trong đồn. Quân địch bị thương vong bỏ chạy vào trong cố thủ.
Sau ít phút hoang mang, địch phục hồi lại thế phòng ngự, chống trả quyết liệt, tập trung hỏa lực súng máy, súng cối ngăn chặn các đơn vị vào sau và dùng lựu đạn, tiểu liên từ các lô cốt và các lỗ châu mai bắn ra làm bộ đội thương vong nhiều. Nhưng người trước ngã, người sau xông lên từng tổ 3 người, dùng lựu đạn, lưỡi lê xung phong diệt địch. Đơn vị sau tiếp sức đơn vị trước giành giật từng ổ đề kháng, đánh chiếm từng căn nhà, trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, cả ta và địch đều bị thương vong nặng nề. Nhưng cuối cùng quân ta đã đè bẹp được sự kháng cự quyết liệt của lính lê dương, tiêu diệt đại bộ phận quân địch, chiếm được đồn nhưng còn một điểm cố thủ nên không tiêu diệt gọn quân địch... Sau trận đánh, tờ báo Ca-ra-ven của Pháp đưa tin: Đại úy Các-đi-nan và trung úy Sác-lôt-tông chỉ huy trưởng và chỉ huy phó của đồn chết trong trận đánh...". Kèm theo bức ảnh chú thích: "Mười một tên sống sót" trong đó có tên thiếu úy.
Tuy không làm chủ hoàn toàn đồn Phủ Thông nhưng thành công nhất của trận đánh là đã làm rung chuyển hệ thống đồn bốt của địch, đánh mạnh vào chiến thuật lấp hệ thống đồn bốt để bình định vùng chiếm đóng. Trận đánh đã góp phần tạo một sức ép lớn, bức địch phải rút khỏi Bắc Kạn hè 1949. Chiến thắng đã đánh dấu bước phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam và trình độ tác chiến của Quân đội ta: đánh công kiên với quy mô tiểu đoàn. Trận đánh là cơ sở khẳng định bộ đội ta có đầy đủ khả năng đánh được các đồn có công sự kiên cố, hỏa lực mạnh. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ trận đánh đã góp phần xây dựng hoàn thiện nghệ thuật đánh công sự vững chắc, góp phần vào chiến thắng của các trận đánh công kiên sau này. Trong thư gửi Tiểu đoàn nhân dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Phủ Thông, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "... Chiến thắng Phủ Thông đã mang lại niềm tin và kinh nghiệm, có cống hiến lớn cho bộ đội ta tiến lên trên con đường đánh công kiên, đặc biệt là trong chiến dịch giải phóng biên giới và trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nói chung cả 30 năm kháng chiến".
Chiến thắng Phủ Thông đã nêu cao ý chí ‘‘Quyết chiến quyết thắng’’ của Quân đội ta. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Phủ Thông và các đơn vị bạn đã chiến đấu dũng cảm ngoan cường, chỉ tiến không lùi, chủ động linh hoạt, mưu trí sáng tạo, tích cực khắc phục khó khăn, chỉ đầu trần, chân đất, áo vải, dao tông... nhưng vẫn quyết đánh và quyết thắng. Trận đánh còn cho thấy tinh thần khổ công luyện tập, thành thạo kỹ thuật chiến thuật, phát huy dân chủ, sáng tạo, tìm tòi cách đánh và tin tưởng đánh thắng. Truyền thống đó đã được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn không ngừng giữ vững và phát huy, liên tiếp lập các chiến công góp phần tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống Pháp và nhiều chiến công vẻ vang khác trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trung tướng TRẦN LINH