Cuối tháng 9-1946, khi cuộc đàm phán trên đất Pháp đã tan vỡ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang trên đường về nước, thì “ở nhà”, Thường vụ Trung ương cũng đã nhận thấy khả năng hòa hoãn ngày càng giảm, khả năng nổ ra xung đột toàn cục giữa ta và Pháp ngày càng tăng. Chiến tranh dường như không thể tránh khỏi. “Sự nín nhịn của nhân dân ta đối với sự khiêu khích lấn tới của thực dân Pháp đã vượt qua giới hạn. Tạm ước 14 tháng 9 là sự nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là hóa thành bù nhìn!”. Trong bối cảnh đó, để chuẩn bị cho Hội nghị quân sự toàn quốc, Tổng Bí thư Trường Chinh đã cùng Bí thư Tổng quân ủy Võ Nguyên Giáp nghe Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái báo cáo tình hình chuẩn bị về quân sự mấy tháng qua. Sau đó, hai ông Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp trao đổi thêm về những vấn đề dự kiến sẽ đề nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc hội, ví như vấn đề thống nhất cơ quan lãnh đạo quân sự cấp Trung ương, vấn đề chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến…

Ngày 19-10-1946, Hội nghị quân sự toàn quốc họp ở phố Nguyễn Du (Hà Nội). Trên cơ sở khẳng định: “Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”, Hội nghị đề ra phương hướng dồn mọi nỗ lực vào việc chỉ đạo toàn quân, toàn dân tích cực chuẩn bị sẵn sàng theo tình huống chiến tranh nổ ra trên phạm vi cả nước. Cụ thể về mặt quân sự, Hội nghị nhấn mạnh việc củng cố tổ chức Đảng trong quân đội làm hạt nhân lãnh đạo từ cơ sở trở lên, củng cố, hoàn chỉnh hệ thống tổ chức công tác chính trị các cấp và công tác cung cấp, đặc biệt là coi trọng việc bồi dưỡng cán bộ. Hội nghị nhất trí đề đạt với Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc thống nhất cơ quan lãnh đạo và chỉ huy quân đội, cụ thể là thống nhất Quân sự ủy viên hội với Bộ Quốc phòng để Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị với Quốc hội trong phiên họp sắp tới, khi quyết định việc thành lập Chính phủ kháng chiến. Cuối cùng, Hội nghị nhấn mạnh: phải chống tư tưởng thái bình, thiếu cảnh giác. Các cấp chỉ huy phải động viên bộ đội: “...tự tin rằng tuy kém về kỹ thuật, vũ khí, nhưng với một tinh thần dẻo dai bền bỉ, mình nhất định sẽ thắng...”.

Để thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong hàng loạt công việc cần suy nghĩ để chuyển đất nước và quân đội từ thời bình sang thời chiến, vấn đề Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đặc biệt quan tâm là chỉ đạo việc nghiên cứu cách đánh trong thành phố, đặc biệt là ở thủ đô Hà Nội. Thường vụ Trung ương đã chấp nhận đề nghị của Tổng chỉ huy, cử đồng chí Vương Thừa Vũ về làm Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội, đồng chí Trần Độ làm Chính trị ủy viên.

Lúc này, đồng chí Vũ đang làm công tác huấn luyện quân sự ở Khu II. Hôm đó, đồng chí Vương Thừa Vũ đang dẫn bộ đội đi tập dã ngoại ở vùng núi Ba Vì thì nhận được thư của Khu trưởng Văn Tiến Dũng cho biết có điện của Thường vụ Trung ương gọi về nhận nhiệm vụ mới. Thư nói rõ: đến Sở Liêm phóng (nay là Công an) thị xã Hà Đông sẽ có người dẫn đến điểm hẹn. Tới nơi, đồng chí Vũ mới biết Thường vụ Trung ương đang họp ở Dinh Tổng đốc Hà Đông cũ. Ngoài Tổng Bí thư Trường Chinh, còn có các ông Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ và cả ông Phạm Văn Đồng vừa từ Pháp về.

Sau khi chỉ ghế cho đồng chí Vũ, Tổng Bí thư Trường Chinh nói, đại ý:

Thường vụ gọi đồng chí đến để giao một nhiệm vụ mới, rất quan trọng. Lúc này, quân Pháp đang ráo riết chuẩn bị, sớm muộn thế nào chúng cũng sẽ gây hấn, sẽ đánh úp Hà Nội, chiếm thủ đô Trung ương Đảng giao cho đồng chí làm Chỉ huy trưởng Khu XI-Khu đặc biệt Hà Nội và tin rằng đồng chí có thể gánh vác được…”.

Tổng Bí thư nói rõ nhiệm vụ trước mắt là phải khẩn trương chuẩn bị và chuẩn bị thật tốt để quân và dân Hà Nội sẵn sàng chiến đấu, đề phòng địch trở mặt tiến công ta trước. Ông nhấn mạnh phải chủ động cả trong công tác chuẩn bị và trong chiến đấu, phải biết huy động sức mạnh của nhân dân vào công tác chuẩn bị đồng thời phải khéo léo không để mắc mưu khiêu khích của địch. Ta cố giành được càng nhiều thời gian chuẩn bị càng tốt, để chiến tranh nổ ra sớm là không có lợi. Mặt khác, lại phải giáo dục cho bộ đội luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, địch tiến công là ta phải đánh trả ngay, nhưng hết sức chú ý giữ gìn lực lượng để kháng chiến lâu dài… Phải giam chân địch trong thành phố càng lâu càng tốt để cả nước có thêm thời gian chuyển sang thời chiến.

Tiếp lời Tổng Bí thư, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp chỉ thị những việc cần triển khai ngay, từ việc nghiên cứu âm mưu và phán đoán cách đánh của địch, nắm tình hình lực lượng của ta (đặc biệt chú ý tự vệ Thành), từng bước hình thành kế hoạch tác chiến… Cuối cùng, đồng chí Giáp nói thêm:

Công việc lớn và không ít khó khăn. Anh hãy cùng anh Thái và cơ quan tham mưu nghiên cứu chuẩn bị khẩn trương nhưng vững chắc từng bước, cố gắng chuẩn bị thật đầy đủ để bảo đảm chiến đấu thắng lợi ngay từ trận đầu…”.

Sau này, Vương Thừa Vũ kể rằng đồng chí ra về “với hàng trăm câu hỏi trong đầu” về cách đánh địch, nhưng đồng chí đặc biệt tâm niệm hai điều nhấn mạnh của Tổng Bí thư:

1-Không để bị địch đánh úp, sẵn sàng đánh trả nếu địch trở mặt tiến công ta trước;

2-Phải giam chân địch một thời gian trong thành phố, không cho chúng sớm mở rộng mặt trận ra ngoại thành.

Nhớ lời dặn của Tổng chỉ huy, ngay sau khi về tới Sở chỉ huy Mặt trận, việc đầu tiên là đồng chí Vũ cùng cơ quan tham mưu nắm lại tình hình địch và dự kiến hành động của chúng nếu chúng đánh ta trước? Với chừng 6.500 quân, địch rải ra đóng trên 50 vị trí từ bên Gia Lâm đến các khu phố trong nội thành, nhất là khu vực được gọi là khu “Phố Tây”. Đáng chú ý là địch tập trung chừng 4.000 quân cơ động đứng chân trên mấy vị trí trọng yếu (trong Thành, Trường Anbe-Xarô, Phủ Toàn quyền cũ, Trường Bưởi, Nhà thương Đồn Thủy và Sân bay Gia Lâm), số còn lại địch đóng phân tán trong rất nhiều vị trí nhỏ, hoặc đối diện hoặc sát kề bên vị trí của ta (như Rạp Majestic đối diện với Trại Vệ quốc đoàn, Khách sạn Métropole đối diện với Bắc Bộ phủ, là nơi làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh…). Thậm chí, có những mục tiêu xung yếu ta và địch gác chung (như Nhà Ngân hàng, Ga Hàng Cỏ, Cầu Long Biên, Nhà máy điện…).

Với thế bố trí xen kẽ cài răng lược triệt để như vậy, nhất là trong điều kiện so sánh lực lượng ta và địch có sự chênh lệch lớn, nếu ta thiếu cảnh giác, rất có thể dễ dàng bị địch đánh úp. Chúng hy vọng có thể nhanh chóng làm chủ thành phố. Mặt khác, quân ta đứng trước một mâu thuẫn là vừa phải khẩn trương chuẩn bị nhưng lại chuẩn bị trước con mắt của địch, làm sao tránh khỏi gây không khí căng thẳng, tránh khỏi địch có cớ để khiêu khích gây sự với ta, trong khi Trung ương yêu cầu giữ không khí hòa hoãn, kéo dài thời gian để việc chuẩn bị được chu đáo hơn.

Trong khi Chính ủy Trần Độ xuống nắm tình hình và động viên bộ đội và Tự vệ Thành thì Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ cùng mấy cán bộ quân báo đạp xe khắp thành phố, từ đường lớn đến ngõ hẻm, vừa đi vừa nghiên cứu địa hình, quan sát vị trí của địch và trao đổi với cán bộ chỉ huy tại chỗ để nắm chắc tình hình của cả ta và địch. Chỉ huy trưởng lắng nghe ý kiến của cán bộ cơ sở, cả Vệ quốc đoàn và Tự vệ Thành, khi anh em nói về tình hình địch và những vấn đề đặt ra với công việc chuẩn bị chiến đấu của ta. Rất nhiều ý kiến gợi cho Chỉ huy trưởng những suy nghĩ mới về cách đánh địch, như dự kiến đào đường hào của bộ đội ở Trại Vệ quốc đoàn Trung ương hay ở Bắc Bộ phủ, ý kiến khoan lỗ vào những cây lớn, đặt sẵn mìn, khi cần cho nổ, ngả cây thành chướng ngại vật trên đường phố. Anh em hứa quyết tâm “giữ từng khu phố, từng đoạn đường”…

Sau vài ngày đi quan sát thực địa và suy nghĩ về những dự kiến cách đánh của cán bộ cơ sở, dần dần trong đầu Chỉ huy trưởng hình thành một ý định tổ chức trận địa bảo vệ thành phố. Khi đồng chí Vương Thừa Vũ đem ra trao đổi bước đầu trong Bộ chỉ huy, hai vấn đề nêu lên thảo luận cũng là hai vấn đề trăn trở nhất mà ông cùng cơ quan tham mưu đã nhiều lần trao đổi:

1-Phải làm thế nào kịp thời đánh trả lại địch, buộc chúng phải bị động đối phó?

2-Sử dụng lực lượng và dàn thế trận như thế nào để giam chân địch dài ngày trong thành phố? Một sĩ quan Nhật đã đầu hàng ta trước đây và nay đang phục vụ trong cơ quan tham mưu, nêu ý kiến là nên tổ chức thành ba phòng tuyến vây quanh thành phố, dựa vào công sự vững chắc để ngăn chặn địch từng bước. Kinh nghiệm chiến đấu của ta ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, mà Tổng chỉ huy đã từng phổ biến, cho thấy: đào hào, đắp lũy để chiến đấu phòng ngự trong điều kiện trang bị như của ta hiện nay, phòng tuyến rất dễ bị xe tăng và bộ binh cơ giới của địch chọc thủng. Phướng án lập phòng tuyến không được chấp nhận. Theo Chỉ huy trưởng, vấn đề đặt ra là phải tìm mọi biện pháp phát huy được sức mạnh của cả Vệ quốc đoàn và Tự vệ Thành, tổ chức lực lượng thích hợp, bám sát địch, đánh du kích ngay trong thành phố.

Các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái theo dõi sát việc nghiên cứu và chuẩn bị kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy Khu 11. Với cơ quan tham mưu Tổng hành dinh, Tổng chỉ huy chỉ thị phải coi việc giúp Bộ chỉ huy Hà Nội hoàn thành kế hoạch tác chiến là nhiệm vụ ưu tiên số 1 trong việc chuẩn bị cho đợt chiến đấu trong thành phố, mà sau này ông gọi là tổng giao chiến. Bản thân Tổng chỉ huy đã cùng Tổng tham mưu trưởng dành nhiều thời gian cùng đồng chí Vương Thừa Vũ phán đoán, dự kiến và tìm lời giải những bài toán đặt ra giữa ta và địch trong cuộc đọ sức sắp tới trên điạ bàn thủ đô. Nhiều lần, các đồng chí cùng xuống từng khu phố, đến từng đoạn đường, kể cả những đường ngang, ngõ tắt thuộc khu phố cổ, để nghiên cứu thực địa và quyết định một phương thức tác chiến cụ thể. Mỗi lần đi như vậy, các đồng chí thường cùng nhau đặt ra những câu hỏi về hành động sắp tới của địch (kể cả trường hợp chúng đánh úp) và về hành động của ta phải như thế nào để giam chân địch dài ngày mà vẫn bảo toàn được lực lượng. Sau này, trong Hồi ký Trưởng thành trong chiến đấu, đồng chí Vũ viết:

Mỗi lần đi là một lần đồng chí (Võ Nguyên Giáp) trao đổi ý kiến với chúng tôi rất cụ thể về công việc tổ chức, chỉ huy chiến đấu, mà thường là đồng chí đề ra những câu khêu gợi, nêu những tình huống tác chiến cụ thể, những giả định để chúng tôi suy nghĩ giải đáp, rồi đồng chí góp ý kiến uốn nắn, chỉ dẫn thêm…”.

Một hôm, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đưa cho Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ tờ báo Sự thật, trong có bài của Tổng Bí thư Trường Chinh viết về Cách đánh trong thành phố. Tác giả chỉ ra nhiều vấn đề về công tác chuẩn bị chiến đấu, cách đánh, cách phá hoại, chặt đường vận chuyển tiếp tế của địch... Tác giả nhấn mạnh vấn đề dựa vào dân và tư tưởng chỉ đạo tác chiến tích cực-chủ động-liên tục. Tổng Bí thư Trường Chinh khẳng định: “Quân du kích phải đánh mới sống nổi, ngừng đánh mà đứng lỳ một chỗ thì nhất định bị tiêu mòn…”.

Sau những ngày nghiên cứu tình hình và trao đổi ý kiến với cấp trên và với cơ quan tham mưu, nhất là suy nghĩ về những nội dung mang tính chỉ đạo mà Tổng Bí thư viết trên tờ Sự thật, dần dần trong đầu óc Chỉ huy trưởng nảy sinh những khái niệm về chiến thuật rất mới lạ, những cụm từ mà cán bộ tham mưu tác chiến Tổng hành dinh mãi sau này vẫn không quên. Đó là những khái niệm học thuật mà anh em cho rằng “chưa có trong từ điển quân sự”. Hôm lên báo cáo dự kiến kế hoạch với Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, đồng chí Vũ nêu chủ trương chia thành phố thành nhiều khu vực, có khu chủ yếu để thu hút địch và tiêu hao tiêu diệt chúng, mà ông gọi là trùng độc chiến; các khu khác áp sát địch, hình thành thế trận trong đánh ngoài vây, trong ngoài cùng đánh, mà ông gọi là nội công ngoại kích. Để ngăn chặn địch trên đường phố, hạn chế khả năng cơ động của xe tăng và bộ binh cơ giới của quân Pháp, đồng chí chủ trương đắp các ụ chướng ngại làm vật cản, nhất là trên những ngã tư xung yếu, buộc địch phải dừng lại tháo dỡ, tạo điều kiện cho quân ta có thể dựa vào các ụ chiến đấu đã chuẩn bị sẵn trên các nhà cao hai bên đường phố, ngay sát chướng ngại vật, vừa tiêu hao địch vừa ngăn cản chúng tháo dỡ vật cản. Đồng chí Vũ gọi đó là chiến thuật cài then cửa (hay là cang chiến). Trong khi một bộ phận bộ đội và tự vệ dựa vào các ổ đề kháng ngăn chặn địch ở phía trước, thì một bộ phận khác bí mật cơ động qua các bức tường đã đục sẵn trong các ngôi nhà trên từng dãy phố để vòng sang bên sườn và phía sau đội hình của địch để tiêu hao chúng. Đồng chí gọi đó là chiến thuật xoáy trôn ốc. Được sự đồng tình của Tổng tham mưu trưởng và được sự giúp đỡ của các phái viên tham mưu của Bộ, đồng chí Vũ vừa tranh thủ triển khai khẩn trương công tác chuẩn bị chiến đấu theo phương án đó vừa hoàn chỉnh kế hoạch để báo cáo Bộ Quốc phòng-Tổng chỉ huy.

Sau này, nhớ lại giá trị thực tế của kế hoạch tác chiến của Khu 11, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “kế hoạch nội công ngoại kích gây cho địch sự lúng túng phải đối phó cả hai mặt, bên trong và bên ngoài, đồng thời bảo đảm tính cơ động của lực lượng ta, không bị cố định trong những phòng tuyến cứng nhắc”. Dự thảo kế hoạch tác chiến được Tổng chỉ huy thông qua bước đầu, gồm mấy nội dung chủ yếu sau đây:

1-Ta phán đoán: Trên cơ sở binh lực và thế bố trí như hiện nay, ngay từ đầu địch sẽ tung lực lượng ra nhanh chóng làm chủ mấy mục tiêu quan trọng nhất đối với chúng: từ trong Thành tiến qua Cửa Bắc và từ Gia Lâm sang, nhanh chóng chiếm cầu Long Biên; từ trong Thành tiến qua Cửa Nam và từ Đồn Thủy (Viện Quân y 108 ngày nay) lên, tỏa đi đánh chiếm Bắc Bộ Phủ, Tòa Thị chính và Ga Hàng Cỏ.

2-Tư tưởng chỉ đạo tác chiến chung của ta là nắm quyền chủ động cả trong tiến công, phòng ngự và tổ chức lui quân sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trong thành phố. Với lực lượng Vệ quốc đoàn, Tự vệ Thành, Tự vệ cứu quốc Hoàng Diệu, Công an xung phong, ta sẽ bất ngờ tiến công đồng loạt khi địch có triệu chứng gây hấn, dồn chúng vào thế bất ngờ, bị động đối phó. Ngay từ đầu, phải nhanh chóng tiêu diệt các ổ chiến đấu cô lập của địch; chuẩn bị sẵn phương tiện để nhanh chóng triển khai các ụ chướng ngại ở những nơi sát địch (mà ta không có điều kiện làm trước giờ nổ súng) để kịp thời ngăn chặn và hạn chế tốc độ hành quân ồ ạt của địch khi chúng tiến đánh các mục tiêu quan trọng nói trên. Nắm quyền chủ động là tư tưởng chỉ đạo phải được quán triệt ngay từ đầu trong kế hoạch tác chiến.

3-Toàn thành phố hình thành hai khu vực tác chiến, phối hợp trong đánh ra-ngoài đánh vào. Khu vực 1 (được gọi là Liên khu 1) là nơi địa hình, địa vật phức tạp, cho phép bám trụ dài ngày để thu hút và tiêu hao địch. Khu vực 2 (được gọi là các Liên khu 2 và 3) gồm phần đất còn lại của thành phố. Liên khu 2 vây địch ở phía Nam. Liên khu 3 ở phía Tây nội thành.

(1) Giới tuyến của Liên khu 1: phía Tây là đường Phùng Hưng, phía Nam là Hàng Bông-Hàng Gai-Cầu Gỗ-Hàng Thùng, phía Bắc và phía Đông là đê sông Hồng, bao gồm cả các bãi giáp ven sông.

4-Với binh lực gồm 2 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn (101 và 145), 5 đội quyết tử đánh xe tăng và 3.000 Tự vệ Thành, Liên khu 1 được xây dựng thành một trung tâm chiến đấu-một trận địa quyết chiến trong nội thành. Dự kiến sau vài ba ngày đầu chiến đấu tiêu hao địch, lực lượng Liên khu 1 sẽ co dần lại bám trụ để thu hút địch và chiến đấu dài ngày trên địa bàn đã chuẩn bị sẵn, thực hiện trùng độc chiến.

5-Các Liên khu 2 và 3, với binh lực gồm 3 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn (77, 212, 523), 8 đội quyết tử đánh xe tăng và khoảng 5.000 Tự vệ Thành, sau chừng ba ngày chiến đấu sẽ dãn dần ra các cửa ô, đêm đêm thường xuyên vào tiến công, đột kích, quấy rối, thu hút, phân tán binh lực địch, thực hiện trong đánh ngoài vây-trong ngoài cùng đánh, buộc chúng phải đối phó trên nhiều hướng, phối hợp và hỗ trợ chia lửa với Liên khu 1. Sự phối hợp tác chiến giữa các Liên khu là phương thức tốt nhất để làm thất bại ý đồ của địch muốn “nhanh chóng làm chủ thành phố”.

Từ thực tế hành động địch đánh chiếm Hải Phòng trong những ngày 20-26 tháng 11, Tổng chỉ huy đặc biệt nhấn mạnh với Bộ chỉ huy Khu 11: Công tác chính trị tư tưởng phải bảo đảm cho bộ đội và tự vệ hết sức đề cao cảnh giác, trong bất kỳ tình huống nào cũng tuyệt đối không mắc mưu khiêu khích của địch nhưng đồng thời không để chúng “tái diễn màn kịch Hải Phòng trên đất Thủ đô”.

Để hoàn chỉnh kế hoạch đã được thông qua bước đầu, được sự giúp đỡ trực tiếp của Tổng tham mưu trưởng và các phái viên tham mưu, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ xuống từng khu phố, cùng cán bộ cơ sở đối chiếu với tình hình tại chỗ để bổ sung kế họach cho thật sát với thực tế đồng thời đôn đốc công tác chuẩn bị về mọi mặt. Hoạt động của bộ đội và tự vệ diễn ra hết sức khẩn trương nhưng bí mật tại khắp các đơn vị, từ nội thành đến các cửa ô, đặc biệt là ở trận địa trung tâm Liên khu 1, từ việc chuẩn bị các ổ đề kháng, đục tường thông từng dãy nhà để bí mật cơ động lực lượng, động viên chính trị tư tưởng, chuẩn bị cơ sở vật chất cho sinh hoạt và chiến đấu dài ngày trong Liên khu, đến việc triển khai lực lượng, chiếm lĩnh và chuẩn bị phần tử bắn cho các trận địa pháo ở ngoại thành, tổ chức sở chỉ huy, hoàn chỉnh mạng thông tin…, tất cả đều phải hoàn thành vào trung tuần tháng 12. Riêng công tác phá hoại và đắp ụ chướng ngại vật trên đường phố (hồi đó gọi là ba-ri-cát), tự vệ từng đường phố dựa vào dân chuẩn bị sẵn phương tiện, khi có lệnh là triển khai được ngay, nhất là trên các trục đường chính, những nơi sát vị trí quan trọng của địch.

Chiều 13-12-1946, trong cuộc họp các Khu trưởng từ Đà Nẵng trở ra để kiểm tra công tác chuẩn bị lần cuối cùng, Tổng chỉ huy tỏ ra hài lòng và chính thức phê duyệt kế hoạch tác chiến của Khu 11. Đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng nhân dịp này giới thiệu kinh nghiệm bước đầu chuẩn bị chiến đấu của Mặt trận Hà Nội. Đồng chí nói với chỉ huy các chiến trường: Trong lịch sử quân sự Đông, Tây, ít có trường hợp chiến tranh nổ ra trong điều kiện ở tất cả các thành phố trong cả nước, nhất là ở thủ đô, nơi quân đội hai bên đối kháng đóng xen kẽ cài răng lược triệt để như bộ đội ta và quân Pháp lúc này. Ta đã biết dựa vào thực tế đó để xây dựng kế hoạch tác chiến phù hợp với thế bố trí và với tương quan lực lượng giữa ta và địch.

Từ trung tuần tháng 12, các vụ khiêu khích của địch liên tiếp xảy ra và ngày càng trắng trợn, từ các vụ nổ súng trên nhiều đường phố (mà đặc biệt nghiêm trọng là vụ thảm sát ở Hàng Bún, Yên Ninh) đến việc chiếm đóng các trụ sở Bộ Tài chính và Bộ Giao thông Công chính. Thực tế hành động của địch chứng tỏ chiến tranh đã trở nên khó tránh khỏi. Cả Thủ đô Hà Nội như một kho thuốc súng, mà quân Pháp như những mồi lửa, chúng có thể làm cho kho thuốc súng nổ tung bất cứ lúc nào. Ngày 18-12, Bộ chỉ huy Pháp gửi tối hậu thư cho ta, đòi tước vũ khí của tự vệ và đòi quyền quản lý thành phố Hà Nội, nếu không, ngày 20 chúng sẽ tự cho quyền tự do hành động. Với thiện chí hòa bình, cố gắng tránh một cuộc chiến tranh nổ ra trên quy mô cả nước, hôm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn biên thư và cử ông Hoàng Minh Giám đi gặp Sainteny để cùng phía Pháp tìm phương sách cứu vãn tình thế. Nhưng đại diện của Pháp khước từ không tiếp phái viên Chính phủ ta. Trong bối cảnh địch chối từ hòa giải và chính thức tuyên chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương hạ quyết tâm phát động kháng chiến toàn quốc.

Chấp hành lệnh của Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ hạ lệnh cho toàn mặt trận chủ động nổ súng tiến công địch, cùng cả nước mở màn cuộc tổng giao chiến trước khi địch thực hiện ý đồ của chúng. 20 giờ 3 phút đêm 19-12-1946, hòa nhịp với tiếng pháo nổ vang từ các pháo đài ngoại thành bắn vào quân địch trong trung tâm Thủ đô, là tiếng súng tiến công của quân ta tại các vị trí đóng quân của Pháp trong khắp thành phố Hà Nội. Theo Tổng Bí thư Trường Chinh, giờ phút đó chính là thời điểm “nín nhịn đã nung nấu trong lòng dân tộc ta biết bao uất hận, nổ thành một sức mạnh xung thiên”.

TRẦN TRỌNG TRUNG