Ảnh Internet
“Trung tướng Vương Thừa Vũ là một cán bộ ưu tú của Đảng, của Quân đội ta, là Đại đoàn trưởng đại đoàn 308, đại đoàn đầu tiên của quân đội ta: Chủ tịch Ủy ban quân quản thành phố Hà Nội năm 1954, nhiều năm là Phó tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam. Trong cuốn hồi ký “Trưởng thành trong kháng chiến”, ông đã ghi lại những ngày tham gia chiến dịch Biên giới của đơn vị mình. Xin được lược ghi nhân kỷ niệm 57 năm chiến thắng này:

Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta bước sang năm thứ 5. Cục diện chiến tranh lúc này đang chuyển biến mau lẹ có lợi cho ta. Tuy nhiên, trước những cố gắng của Pháp đánh phá ta về mọi mặt trên khắp các chiến trường, chúng đã gây cho ta nhiều thiệt hại, ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng và phát triển lực lượng.

Đứng trước tình hình trên, Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương “Cần chiếm ưu thế quân sự trên chiến trường chính” và nhiệm vụ quân sự trước mắt là “quét lực lượng địch ra khỏi miền biên giới Bắc Bộ”. Để thực hiện nhiệm vụ đó, tháng 6-1950, Trung ương Đảng chỉ thị mở chiến dịch biên giới phía bắc. Thế nhưng chọn khu vực nào trên tuyến biên giới dài gần 1.000km từ Bát Sát (Lào Cai) đến Móng Cái (Quảng Ninh)? Lúc đầu, Tổng quân ủy đề nghị tiếp tục giải phóng biên giới ở khu vực Lào Cai, nhưng sau khi so sánh, cân nhắc lại các điều kiện giữa mặt trận Tây Bắc và Đông Bắc, Trung ương quyết định hướng chính là khu vực biên giới thuộc hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.

Ngày 7-7-1950, Bộ Tổng tư lệnh hạ lệnh mở chiến dịch biên giới Cao-Lạng, lấy mật danh là chiến dịch Lê Hồng Phong II. Ngày 25-7, Ban Thường vụ Trung ương Đảng thành lập Đảng ủy Mặt trận Biên giới do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, làm Bí thư kiêm Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy chiến dịch. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng, làm Tham mưu trưởng chiến dịch.

Ngày 2-8, Bộ chỉ huy mặt trận triệu tập cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên nghe phổ biến nhiệm vụ chung của chiến dịch và nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị. Để bảo đảm chắc thắng, Bộ Tổng tư lệnh sử dụng nhiều đơn vị mạnh tham gia chiến dịch: Đại đoàn 308 do tôi làm Đại đoàn trưởng, gồm 3 trung đoàn: 102, 88, 36; hai trung đoàn chủ lực của Bộ Tổng tư lệnh là 174, 209 do các đồng chí Đặng Văn Việt và Lê Trọng Tấn làm Trung đoàn trưởng; ba tiểu đoàn chủ lực của liên khu Việt Bắc và tỉnh Lạng Sơn, ngoài ra còn các đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.

Đại đoàn Quân Tiên Phong được giao nhiệm vụ mở màn chiến dịch, đánh vào thị xã Cao Bằng. Lần đầu tiên được giao nhiệm vụ tấn công vào một thị xã, biết rằng sẽ không dễ dàng nhưng chúng tôi vẫn rất phấn khởi và tin tưởng. Trong lúc toàn thể cán bộ, chiến sĩ đại đoàn Quân Tiên Phong quên hết mệt nhọc, không ngại hy sinh, chuẩn bị chờ đón ngày nổ súng thì chúng tôi lại nhận được điện khẩn: “Hoãn tiến công, cán bộ từ trung đoàn trở lên về Sở chỉ huy mặt trận nhận lệnh mới”.

Ngày 24-8, chúng tôi về tới sở chỉ huy mặt trận ở huyện Nước Hai, cách thị xã Cao Bằng hơn 10km về phía tây bắc. Không khí làm việc của các bộ phận giúp việc Bộ chỉ huy mặt trận rất tất bật, khẩn trương. Đến giờ họp, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, hình như đã chờ chúng tôi từ lâu, ra cửa lán thân mật bắt tay. Sau khi hỏi thăm sức khỏe bộ đội, các đồng chí dẫn chúng tôi vào phòng họp. Chúng tôi đứng vây quanh tấm bản đồ quân sự hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn được trải rộng. Như thấu hiểu nỗi băn khoăn của những người đã chuẩn bị sẵn sàng mà không được đánh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Bộ chỉ huy mặt trận triệu tập các đồng chí về đây để giao nhiệm vụ mới, nhưng vẫn ở địa bàn cũ”. Đồng chí chỉ tay vào bản đồ nói tiếp: “Sau khi nghe bộ phận quân báo tiền phương báo cáo về tình hình địch mới nhất, sau khi đi nghiên cứu thực địa lần cuối cùng, và sau khi báo cáo và được Ban Thường vụ Trung ương Đảng chuẩn y, Bộ chỉ huy mặt trận quyết định thay đổi quyết tâm, lấy Đông Khê là mục tiêu tiến công mở màn chiến dịch, chứ không phải là thị xã Cao Bằng như đã phổ biến trước đây”. Sức tập trung như bị chùng lại trong vài giây, mọi người đổ dồn sự chú ý của mình vào cứ điểm Đông Khê đã được vẽ to trên tấm bản đồ tình huống. Đại tướng giải thích: “Đánh Cao Bằng sẽ gặp phải khó khăn, vì đây là điểm mạnh của địch, quân đông, có hệ thống phòng thủ kiên cố. Nhưng điều đáng để chúng ta thay đổi quyết tâm chiến dịch là đánh vào thị xã này không làm rung chuyển mạnh toàn bộ tuyến phòng thủ vùng Đông Bắc, vì thị xã Cao Bằng nằm ở cuối đường chiến lược số 4, là vị trí cuối cùng trên tuyến phòng thủ biên giới của địch. Cứ điểm Đông Khê tuy không to, không kiên cố bằng nhưng đó là một vị trí hiểm yếu. Đánh Đông Khê là cô lập địch ở Cao Bằng, là giành lợi thế về ta. Nhiệm vụ thay đổi nên phân bố lực lượng cũng thay đổi. Trung đoàn 174 và trung đoàn 209 sẽ được tăng cường 10 khẩu sơn pháo 75mm và một đại đội ĐKZ 60mm, đảm nhiệm mở màn chiến dịch, tiêu diệt bằng được cứ điểm Đông Khê”.

Ngừng một lát, quay sang tôi, Đại tướng nói: “Đại đoàn 308 làm nhiệm vụ đánh viện, sẽ bố trí phục kích trên địa hình có lợi ở đoạn đường từ Thất Khê đến Đông Khê. Nhiệm vụ rất quan trọng, phải đánh thắng”...

Cuộc họp đến đây tưởng đã kết thúc, thì chúng tôi được thông báo Bác đến thăm. Phòng họp náo nhiệt hẳn lên. Bác đến. Chúng tôi khép dần vòng tròn để được gần Bác hơn. Bác giản dị quá. Người mặc bộ quân phục mùa hè màu xanh, khăn mặt vắt vai, đội mũ cát, tư thế gọn gàng. Không khí ấm cúng bao trùm cả căn phòng. Bác nói ít nhưng sức truyền cảm mạnh mẽ:

- Các chú đã được nghe Bộ chỉ huy mặt trận phổ biến quyết tâm của Trung ương mở chiến dịch này. Các chú đã được giao nhiệm vụ cụ thể. Bác thấy không cần phải nói gì thêm. Thời gian lúc này là rất quý, các chú cần tranh thủ tổ chức tốt công việc chiến đấu...

Cuối cùng Bác nhấn mạnh: “Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết tâm đánh thắng trận này!”.

Ra về, lòng mọi người khắc ghi lời Bác dặn: “Chỉ được đánh thắng trong chiến dịch này!”.

DUY HƯNG (lược ghi)