 |
Bức thư của Bác Hồ gửi đồng chí Trần Đăng Ninh |
Trong số những kỷ vật Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê - nguyên Phó tư lệnh Quân khu 1 trao tặng Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, có một thứ vô cùng quý giá. Đó là bức thư của Bác Hồ gửi đồng chí Trần Đăng Ninh mà xung quanh hoàn cảnh ra đời của nó có nhiều chuyện rất thú vị và bổ ích. Chúng tôi đã được nghe Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê kể lại:
Ngày 28-7-1950, Trung ương Đảng cử đồng chí Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp - trực tiếp phụ trách hậu cần Chiến dịch Biên Giới. Tôi được phân công làm thư ký cho đồng chí Trần Đăng Ninh.
Ngày 2-9-1950, Bác gửi thư cho bộ đội: “Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng trận này”. Trung tuần tháng 9 năm 1950, Bác lên đường ra mặt trận. Tới Cao Bằng, Người đến ngay Tả Phẩy Tử (thuộc huyện Quảng Uyên-Cao Bằng). Đồng chí Cao Pha (sau này là Thiếu tướng-Phó tư lệnh Binh chủng Đặc công) và bộ phận trinh sát mặt trận dẫn đường đưa Bác lên núi kiểm tra trận địa, xem xét kế hoạch tác chiến, kiểm tra công tác hậu cần, nơi ăn chốn ở của bộ đội và dân công.
Khoảng cuối tháng 10, chiến dịch kết thúc thắng lợi. Bác Hồ trở lại Thái Nguyên. Thấy Bác trải qua những ngày tham gia chỉ đạo chiến dịch gian khổ, mệt nhọc, sức khỏe có phần giảm sút, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trần Đăng Ninh rất lo lắng. Các đồng chí đề xuất với Bác chuẩn bị xe ô tô để Bác về. Bác cười nói: Dạo này trời mưa nhiều, đường lầy lội, sụt lở đất, ô tô không đi được, Bác đi bộ thoải mái và chủ động hơn. Trên đường đi đến đâu muốn dừng chân thăm đồng bào, thăm bộ đội, dân công, ngắm cảnh thiên nhiên thì Bác dừng, đói bụng thì nấu cơm ăn, lại khỏi bị máy bay địch quấy rầy như đi xe dọc đường lớn. Bác quyết định đi đường bộ theo đường 3B từ Cao Bằng-Tài Hồ Sìn-Bằng Khẩu-Ngân Sơn-Nà Phạc-Nà Cù-Bắc Kạn-Thái Nguyên.
Trước khi Bác ra về, đồng chí Trần Đăng Ninh thấy trời vẫn mưa, đường trơn lầy lội, nhiều đoạn đường bị lở đất bèn chỉ thị cho tôi ra Trạm vận tải Cao Bằng lấy một con ngựa tốt để Bác đi. Nghe tin chọn ngựa cho Bác Hồ, anh em Trạm vận tải vui lắm. Chúng tôi chọn được một con ngựa béo, rất hiền, chân đóng móng sắt cẩn thận. Chuẩn bị ngựa cho Bác xong, ai cũng vui mừng, yên tâm Bác có ngựa tốt đi đường xa.
Thế nhưng hơn một tuần sau ngày Bác về Cao Bằng, ngày 29-10-1950, đồng chí Trần Đăng Ninh nhận được một bức thư Bác gửi. Nội dung bức thư, Bác viết:
Chú Ninh
- Bộ đội Định chiều về đến B.K, đều mạnh khỏe, 3 hôm nữa sẽ về đến nhà.
- “Cảm ơn” người đã cho mượn con ngựa què nên “khen” người nuôi con ngựa què ấy.
- Xe hơi có thể chở 35 người (với rất ít hành lý thôi), từ Nà Fạc đến B. K = 37 cây số và từ B.K. đến Chợ Mới = 42 cây số. (Đoạn này phải đi bộ 6 cây số vì đường xấu. Đoạn ấy cách thị xã B.K. 22 cây số).
- Tôi đã dặn chủ tịch Fùng. Báo tin anh Đặng sắp về, thì chú điện trước cho chú Fùng chuẩn bị. (Đồng chí Phùng, Chủ tịch ủy ban Kháng chiến tỉnh Bắc Kạn).
- Từ Cao Bằng đến Nà Fạc đi bẩy ngày rưỡi thong thả.
- Trong mười mấy tù binh chú gửi về B.K. có 1 tên quan ba. Chú gửi lầm, hay có ý định gởi?
- B. (Bác) gởi lời hỏi thăm anh Đông, anh Đặng, Hai và tất cả các anh em. (Đặng là đồng chí Đặng Nhất Phàm, cố vấn Trung Quốc); Hai (Bí danh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp).
Thân
…
Thì ra, ngựa mới chở Bác đi được một chặng đường thì chiếc móng long dần, long dần rồi tuột khỏi chân ngựa, văng đi mất. Con ngựa to khỏe thế bỗng chốc đi khập khiễng vì 3 chân cao, một chân thấp, thành ngựa què. Đồng chí Định là thư ký, đồng chí Nhất là bảo vệ cho Bác, lặn lội, bới lá rừng tìm kiếm móng ngựa nhưng chẳng thấy tăm hơi. Thế là chú ngựa mất móng, đau chân trở thành ngựa què, không cưỡi được cũng không thồ hàng được. Không những chẳng giúp gì được cho Bác, chú ngựa trở thành gánh nặng, anh em cùng với Bác phải lo chăm sóc, nuôi nấng ngựa.
Đọc xong thư, đồng chí Trần Đăng Ninh trao thư cho tôi và nói: “Cậu đọc kỹ đi rồi giữ làm kỷ niệm”.
Tôi đọc đi đọc lại bức thư không biết bao nhiêu lần, nhớ từng nét chữ, từng dấu phẩy, nét ngoặc trong bức thư. Hơn nửa thế kỷ qua, tôi luôn suy nghĩ từng câu, từng chữ trong bức thư đó. Lời lẽ của Bác viết trong thư ngắn gọn, cô đọng nhưng thân tình như cha con. Bác phê bình thật nhẹ nhàng, hóm hỉnh, nhưng thật thấm thía. Tôi cảm thấy tình cảm thương yêu, quan tâm của Bác đối với bộ đội và nhân dân thật sâu sắc. Tôi hiểu một việc tuy đơn giản nhưng trở thành một khuyết điểm trong việc thực thi nhiệm vụ. Đó là bài học lớn về tác phong công tác đối với tôi và với tất cả mọi người.
Trong suốt cuộc đời quân ngũ của mình, chuyện con ngựa què và bức thư của Bác luôn nhắc nhở tôi: dù làm việc lớn hay nhỏ đều phải hết sức cẩn thận chu đáo, phải kiểm tra cụ thể, làm đến nơi đến chốn, đừng để ý định thì tốt nhưng kết quả đạt được lại không như mong muốn.
TRẦN THANH HẰNG