QĐND Online - Vừa thoát khỏi ngục tù của quốc dân đảng, Hồ Chủ tịch đã về ngay Cao Bằng trực tiếp chỉ đạo kháng chiến. Với quan điểm phát huy truyền thống cả nước chung sức, toàn dân đánh giặc, toàn dân tiếp tế phục vụ quân đội, nên mặc dù còn muôn vàn khó khăn, nhưng Hồ Chủ tịch vẫn kiên quyết với chủ trương thành lập một đội vũ trang tập trung. Người phác ra những nét chính của đội, từ tổ chức đến phương châm hành động, từ gây dựng lực lượng ban đầu đến phát triển thành đội quân lớn mạnh...đặc biệt là vấn đề hậu cần bảo đảm lương thực và đạn dược. Người chỉ đạo phải tìm hiểu và củng cố cho được một căn cứ sao cho tiến khả dễ công, thoát khả dễ thủ. Người căn dặn nhiều lần “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được. Những hoạt động đầu tiên của đội phải nhằm đánh vào một vài đồn địch, cướp súng đạn của chúng. Nguồn cung cấp hậu cần sẽ dựa vào nhân dân”.

Để thực hiện được chủ trương trên, ngày 22-12-1944, tại một khu rừng vùng căn cứ thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, 34 chiến sỹ dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp đã trang trọng làm lễ thành lập. Đồng chí Văn Tiên được phân công làm công tác quản lý (đồng chí Văn Tiên, tên thật là Lộc Văn Lùng, dân tộc Tày, quê ở xã Mai Pha, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn). Đồng chí là người cao tuổi nhất đội, từng tham gia Cứu quốc quân, yêu quý các đồng chí trong đội như con, em, coi trọng từng đồng xu, từng hạt gạo của công quỹ.

Kế sách của ông cha đã từng dạy: “Binh, lương hai việc trong lúc gây dựng nước nhà là vô cùng bức thiết”. Vậy nhưng, những ngày đầu cơ sở vật chất lại gần như không có gì, lương ăn chủ yếu là khoai sắn hầu hết dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân. Vì thế, ngay sau lễ thành lập, toàn đội đã tổ chức ăn một bữa cơm nhạt, không rau không muối để thể hiện tinh thần sẵn sàng chịu đựng gian khổ, khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn... Với khí thế của đội quân quyết chiến quyết thắng, ngày 25-12, toàn đội ra quân trận đầu tiên, tiến xuống cánh đồng Kim Mã, giấu quân cách đồn Phai Khắt khoảng một km. Tất cả công tác hậu cần từ cơm ăn nước uống đều do Hội phụ nữ cứu quốc địa phương phân công người nấu và mang đến. Diệt xong đồn Phai Khắt, ngay trong đêm đội tổ chức vượt tiếp chặng đường 20 km sang đánh đồn Nà Ngần. Dọc đường hành quân, một số chị em “trung kiên” được phân công trước cũng đã chuẩn bị sẵn cơm nắm gói thành từng phần một, bộ đội chỉ dừng lại vài phút để nhận phần cơm, uống hớp nước rồi lại tiếp tục đi ngay. Hạ xong đồn Nà Ngần, trên đường trở về, các đồng chí trung kiên lại cử nhau đón đường tiếp tế lương ăn, lão đồng chí quản lý Văn Tiên như biết trước yêu cầu của anh em, nấu một nồi nước uống nóng giòn chờ đợi.

Trong hoạt động và chiến đấu của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân những ngày đầu thành lập, việc cung cấp cơm ăn, nước uống đều do các cơ sở quần chúng, đoàn thể phụ nữ những nơi đoàn đi qua và dừng lại đảm nhiệm tiếp tế. Người quản lý của đội căn cứ vào kế hoạch hành quân và nhiệm vụ chiến đấu liên hệ với các đoàn thể quần chúng để tổ chức hậu cần tiếp tế trực tiếp tại chỗ. Ngay từ năm 1941, trong biểu biên chế tổ chức đội tự vệ, Trung ương Đảng đã xác định mỗi đại đội có “một kinh lý viên, một quân giới viên, một y vụ viên”. Sau khi thành lập, đặc biệt là sau hai trận Phai Khắt, Nà Ngần quân ta thắng trận thu được nhiều súng đạn, quân số phát triển thành cấp đại đội, từ một người quản lý, đội đã thành lập ban quản lý. Phát huy thắng lợi quân ta tiếp tục tiến lên Bảo Lạc chuẩn bị đánh đồn Đồng Mu. Dọc đường hành quân qua các bản người Dao, ở đây đồng bào phải đi lấy đất từ xa về đổ vào các hốc đá để trồng cây ngô, cây sắn, nên đời sống rất thiếu đói, bữa ăn chỉ có bột ngô đồ với canh rau, nhưng gia đình nào cũng hết lòng giúp đỡ bộ đội.. Thắng trận Đồng Mu toàn đội quay về Thông Nông để hoạt động vũ trang tuyên truyền. Đến đâu chiến sỹ ta cũng được đồng bào các nơi ủng hộ, anh em trong đội ai cũng thấy như mình là con đẻ của nhân dân, đang sống trong sự chăm sóc, bảo vệ của nhân dân.

Cùng với Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân cũng phát triển mạnh. Phong trào cách mạng lan rộng, căn cứ địa cách mạng Cao Bằng mở xuống vùng Ngân Sơn, Chợ Rã, Chợ Đồn (Bắc Cạn), Chợ Chu, Định Hoá (Thái Nguyên) nối liền với căn cứ của Cứu quốc quân ở Bắc Sơn-Võ Nhai (Lạng Sơn); Đại Từ, Chợ Chu (Thái Nguyên); Sơn Dương (Tuyên Quang)... Lúc này công tác hậu cần vừa dựa vào sự giúp đỡ, tiếp tế của nhân dân, các đơn vị vũ trang vừa tích cực phát nương, trồng ngô, sắn, săn bắt thú rừng để cải thiện sinh hoạt. Mỗi khi phải di chuyển địa điểm đóng quân bộ đội ta lại bàn giao nương ngô, bãi sắn lại cho đồng bào thu hoạch. Những ngày đầu do sinh hoạt ăn uống thiếu thốn nên sức khoẻ của bộ đội giảm sút, có đơn vị gần nửa số quân bị sốt rét, thuốc chữa bệnh không có. Phần lớn những chiến sỹ ốm nặng phải gửi lại nhờ đồng bào chăm sóc. Tuy gian khổ, thiếu thốn nhưng có căn cứ trong lòng dân, lại được nhân dân bảo vệ và nuôi dưỡng, các đội vũ trang ra đời trong thời kỳ tiền khởi nghĩa đã bảo vệ và không ngừng phát triển được lực lượng của mình.

Nhờ có căn cứ địa vững chắc dựa được vào dân, được nhân dân đùm bọc, các đội vũ trang cách mạng đã giải quyết được vấn đề hậu cần cung cấp lương thực thực phẩm, liên tục hoạt động chiến đấu, góp phần củng cố và mở rộng các căn cứ cách mạng, phát triển lực lượng, gấp rút chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang khôi phục nền độc lập. Công tác hậu cần những ngày đầu tiên ấy là hậu cần nhân dân, dựa vào căn cứ hậu phương, dựa vào nhân dân, nhờ toàn dân cung cấp, tiếp tế phục vụ để quân đội yên tâm đánh giặc.

Lê Văn Chung