Liên lạc viên Nguyễn Bá Khán tiếp tế cho các chiến sĩ ở mặt trận Đuôi Cá-Cầu Tiên, mồng Một Tết Đinh Hợi 1947.Ảnh tư liệu LSQS.

Trước nguy cơ của cuộc chiến tranh xâm lược đang đến gần, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đã ra sức củng cố chính quyền các cấp, tiến hành vũ trang toàn dân, phát triển tự vệ, xây dựng Vệ quốc đoàn, phát triển các tổ chức, đoàn thể cứu quốc, đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích giới công thương góp phần phát triển kinh tế; giáo dục nhân dân nâng cao cảnh giác cách mạng, bài trừ bọn phản động và tổ chức đập tan hành động phá hoại của các thế lực thù địch.

Trung ương giao cho Hà Nội nhiệm vụ: “Khi địch cố tình gây chiến tranh, thì nhanh chóng quật trả lại, giành chủ động, chiến đấu giam chân địch một thời gian nhất định để hậu phương kịp thời huy động lực lượng kháng chiến... Phải tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, nhưng đồng thời phải giữ gìn và phát triển lực lượng của ta”. Theo kế hoạch tác chiến của Khu 11 (Hà Nội), nội thành được chia ra làm 3 liên khu. Dựa vào hệ thống các Uỷ ban bảo vệ từ cấp thành phố tới các liên khu và các khu hành chính ngoại thành, Khu ủy Khu 11 bí mật chỉ đạo “Tiêu thổ kháng chiến”, chuẩn bị mọi mặt: trừ gian, bảo mật, phá huỷ các công trình, làm vật cản ngăn chặn địch; tiếp tế hậu cần; giao thông liên lạc; cứu chữa thương binh... Việc chuẩn bị các khu an toàn ở trong và ngoại thành để bảo vệ Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiến hành rất cẩn mật. Nghiên cứu sản xuất vũ khí, đạn thời kỳ này là nhiệm vụ hàng đầu, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm. ở Hà Nội, ngành Quân giới vừa đặt gia công các chi tiết, bộ phận vũ khí để thay thế, vừa nghiên cứu sản xuất các vũ khí thô sơ ở các cơ sở Avia, Star, Trường Kỹ nghệ thực hành... Nhà máy Mai Trung Tân cũng được trưng dụng thành lập binh công xưởng sửa chữa pháo. Xưởng Tương Lai (phố Hàng Đậu), Công ty Cao Thắng (phố Hàng Bột), Công ty Phan Đình Phùng... được giao nhiệm vụ vừa sửa chữa cơ khí, vừa nghiên cứu sản xuất lựu đạn kiểu Nhật, bom ba càng, chữa súng trường, súng máy. Xưởng vũ khí của Tổng bộ Việt Minh đã sản xuất được súng tiểu liên Xten, lựu đạn và có nhiều công nhân tay nghề khá.

Công tác di chuyển các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, kho tàng và cán bộ kỹ thuật ở Hà Nội đi kháng chiến được chủ động tiến hành từng bước. Từ đầu năm 1946, ta bí mật di chuyển dần các máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu, các binh công xưởng, bệnh viện, cơ sở hậu cần kỹ thuật... ra khỏi các thị xã, thành phố về vùng lân cận ở nông thôn, rừng núi, bảo đảm an toàn, tiện sản xuất phục vụ chiến đấu và di chuyển tiếp lên các căn cứ kháng chiến địa phương và chiến khu Việt Bắc khi chiến sự lan rộng. Các xưởng Quân giới trong nội thành Hà Nội chuyển về vùng Vụ Bản (Nam Định), Mỹ Đức (Hà Tây), Chi Nê (Hoà Bình), kết hợp với các xưởng có sẵn ở đây hình thành các xưởng Quân giới của Khu Hà Nội (Khu 11). Các xưởng ở khu vực Bắc sông Hồng chuyển lên Thái Nguyên, hợp nhất với các xưởng có sẵn ở đây hình thành các xưởng Quân giới của Khu 1... Xưởng hóa chất của Cục Quân giới vừa di chuyển vừa sản xuất thuốc súng để kịp thời cung cấp cho việc nhồi lắp đạn súng trường phục vụ cuộc chiến đấu trong nội thành Hà Nội. Các cơ sở Quân nhu, Quân y ... cũng được di chuyển về các vùng nông thôn, rừng núi và lên Việt Bắc. Công nhân Thủ đô đã di chuyển hàng trăm tấn máy móc, vật tư, chủ yếu vào ban đêm, trên những con đường bí mật, đưa ra các vùng an toàn, lên chiến khu để xây dựng các cơ sở sản xuất thiết yếu phục vụ đời sống và quốc phòng. Các cụ già, trẻ nhỏ tản cư về vùng xa Hà Nội; lực lượng còn lại đều được đăng ký vào tự vệ, cứu thương... cùng Vệ quốc quân sẵn sàng đánh địch. Khắp thành phố, các lối đi bí mật được tạo thành bằng cách đục thông tường nhà này sang nhà khác, tiện cho cơ động tác chiến. Khối tự vệ ở lại chiến đấu bảo vệ thành phố chuẩn bị sẵn mỗi người 15 kg gạo, một số thực phẩm khô và muối. Những gia đình ở lại cũng tích trữ gạo, thức ăn khô, dùng chum vại hoặc đào giếng trong nhà để dự trữ nước sinh hoạt. Riêng lực lượng chiến đấu ở Liên khu 1 dự trữ ba tháng lương thực, thực phẩm và được chia một nửa số vũ khí, đạn dược mà thành phố có lúc đó. Các trạm cấp cứu (cả quân y và dân y) đặt ở khu vực cơ quan chỉ huy Liên khu 2 và 3. Liên khu 1 có hai trạm cấp cứu ở nhà số 26 Hàng Buồm và rạp Olympia (nay là Rạp Hồng Hà) ở phố Hàng Da. Một số tổ kỹ thuật được thành lập để làm nhiệm vụ kiểm tra, sửa chữa tại chỗ vũ khí hư hỏng, đặc biệt là pháo và đạn ở các pháo đài. ở ngoại thành, các xã, huyện đều lập ra các ban tiếp tế phục vụ. Các kho lương thực được bố trí ở Thanh Liệt, Mễ Trì và một số địa điểm dọc theo sông Nhuệ. Một số bệnh viện chuyển về Văn Điển, Cự Đà, Khúc Thuỷ. Quân y viện Trung ương chuyển về Vân Đình (Hà Đông) sẵn sàng đón nhận thương binh từ mặt trận Hà Nội chuyển về. Nhân dân Hà Nội gấp rút thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, làm “vườn không nhà trống” chuẩn bị cho cuộc chiến đấu “... quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”. Ngày 16-12-1946, Vệ quốc quân làm lễ tuyên thệ “Quyết tử để bảo vệ Thủ đô”. Ngày 18-12-1946, Thanh niên tự vệ thành quyết nghị “sẵn sàng đợi lệnh, thề sống chết với Thủ đô”...

Đêm 18-12-1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước vũ khí của tự vệ và công an. Thời kỳ hoà hoãn kết thúc. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946): “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh Pháp, cứu Tổ quốc! Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cứu nước”, nhân dân Thủ đô và cả nước lại khẩn trương bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Do tăng quân trái phép, ở Hà Nội lúc này Pháp có 6.500 quân, trang bị khá hiện đại, đóng ở 45 điểm, cạnh các cơ quan đầu não của ta và chặn các cửa ngõ vào thành phố. Chúng hy vọng rằng sau khi nổ súng có thể nhanh chóng bao vây, chia cắt, tiêu diệt quân ta, làm chủ thành phố sau 24 giờ. Lúc này, lực lượng của Hà Nội chỉ có 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn, 8.500 tự vệ, vũ khí trang bị phần lớn là thô sơ, tự tạo, kinh nghiệm chiến đấu trong thành phố chưa có là bao. Nhưng sau họ là đông đảo nhân dân Thủ đô sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở Hà Nội bắt đầu với tương quan lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch. Song, quân và dân Thủ đô đã khẳng định quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Ngay chiều 19-12-1946, kế hoạch tác chiến và giờ nổ súng toàn thành được bí mật phổ biến đến khắp các đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân Thủ đô. Đúng 20 giờ đêm 19-12-1946, công nhân Nhà máy điện Yên Phụ được lệnh phá máy. Toàn bộ đèn điện trong thành phố phụt tắt. Đó là hiệu lệnh chiến đấu cho toàn thành phố nổ súng! Bị đòn phủ đầu choáng váng, địch lúng túng đối phó, thế trận bị đảo lộn; nhưng sau đó chúng lập tức phản kích quyết liệt. Vừa tung quân chi viện những nơi bị cô lập, giặc Pháp vừa tiến đánh các vị trí quan trọng của ta như: Bắc Bộ Phủ, trụ sở Bộ Quốc phòng, do anh trại Vệ quốc đoàn Trung ương ở phố Hàng Bài, Sở chỉ huy tự vệ ở Đấu Xảo, Sở Bưu điện, ga Hàng Cỏ, cầu Long Biên... Đến đâu địch cũng gặp sức chiến đấu quyết liệt của ta, bởi “Mỗi người dân là một người lính”, “Mỗi nhà là một pháo đài”, “Mỗi phố là một chiến tuyến”; công nhân, thanh niên, học sinh, phụ nữ... đều trở thành tự vệ và làm cứu thương, tiếp tế; thiếu niên xung phong làm liên lạc.

Như vậy, âm mưu của thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội trong vòng 24 giờ bị thất bại, chúng phải đối mặt với cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp và đánh kéo dài hàng tháng. Trong thử thách, khó khăn ngặt nghèo những ngày đầu kháng chiến, quân dân Thủ đô trưởng thành về nhiều mặt, lực lượng vũ trang có bước phát triển cả về lượng và chất, tích lũy được những kinh nghiệm tác chiến quý giá.

Sau nhiều ngày chiến đấu, lực lượng địch đã bị tiêu hao một phần, tinh thần bị giảm sút, việc tăng viện của chúng để tiếp tục tiến công gặp nhiều khó khăn. Ta cũng có nhiều khó khăn trong tiếp tế hậu cần; cứu chữa thương, bệnh binh. Hai bên đã thoả thuận ngừng bắn trong ngày 15-1-1947 để giải quyết vấn đề thương binh, ngoại kiều, di tản dân thường. Nhân cơ hội này, Liên khu 1 chuyển được 10.000 người ra khỏi thành phố, trong đó có một số cán bộ và 3.500 tự vệ cải trang ra theo và dự kiến để lại khoảng 500 người (thực tế còn hơn 1.000 người) tổ chức củng cố, chuẩn bị chiến đấu trong điều kiện mới.

Từ ngày 15-1-1947, sau khi đánh thông Đường số 5, giặc Pháp tập trung quân từ Hải Phòng lên mở những cuộc tiến công lớn nhằm tiêu diệt lực lượng ta trong thành phố. Trên 5 cửa ô, địch huy động lực lượng đông hơn ta 6-8 lần nhằm đánh dứt điểm các vị trí của ta. Với chủ trương: “Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài”, sau khi chặn đánh địch, ta chủ động rút đi; địch bị thiệt hại mà vẫn không tiêu diệt được chủ lực ta. Ngày 15-2-1947, Liên khu 1 nhận được lệnh của Bộ Tổng chỉ huy: “Trở về hậu phương xây dựng lực lượng lớn mạnh hơn để kháng chiến lâu dài...

Đêm 17-2-1947, được nhân dân các địa phương hết lòng giúp đỡ, các đơn vị bạn phối hợp và chi viện chiến đấu, Trung đoàn Thủ Đô đã rút ra khỏi thành phố một cách an toàn. ở phía Tây và phía Nam thành phố, Trung đoàn 48 và 52, với chỗ dựa vững chắc là vùng tự do, được nhân dân hết lòng giúp đỡ, tiếp tục chiến đấu kìm chân địch. Chỉ trong vòng hai ngày 20 và 21-12-1946, nhân dân Tả Thanh Oai ủng hộ bộ đội 150 tấn thóc và nhiều loại thực phẩm. Hội phụ nữ các xã cử người nấu ăn tiếp tế cơm nước cho bộ đội, dân quân, tự vệ. Thương binh được sơ cứu, gửi vào nhà dân sau đó chuyển về các bệnh viện dân y ở Cự Đà, Văn Điển, Khúc Thuỷ.

Cuộc chiến đấu của quân dân Hà Nội mở đầu Toàn quốc kháng chiến đã hoàn thành nhiệm vụ ngăn chặn, kìm giữ địch trong thành phố 60 ngày đêm-vượt nhiều lần dự kiến, tạo điều kiện để Trung ương và các cơ quan di chuyển an toàn lên chiến khu. Chiến công của quân dân Hà Nội xứng đáng với lời đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “... là một điển hình thành công của nghệ thuật đánh giặc trên mặt trận đô thị của nước ta... Đây là một bước mở đầu rất oanh liệt của cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp, góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống Đông Đô-Thăng Long-Hà Nội”; trong đó công tác hậu cần, mà trực tiếp là hậu cần nhân dân ta, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi đó.

LƯU VĂN MIẾU