Bà An-giê-la Tê-da-ni và nhà làm phim Ma-ri-ô Da-nốt (người đầu tiên bên phải) tại buổi nói chuyện về nhà báo Ti-di-a-nô Tê-da-ni
Người tự cho mình là vô danh ấy được coi là một trong những nhà báo tầm cỡ nhất thế kỷ 20 của châu Âu, cố nhà báo I-ta-li-a Ti-di-a-nô Tê-da-ni, người may mắn được chứng kiến và tường thuật trực tiếp sự kiện Sài Gòn giải phóng năm 1975 ở Việt Nam. Vào dịp Tuần lễ văn hóa I-ta-li-a đang diễn ra tại Hà Nội, Tê-da-ni lại được nhắc tới qua những dòng hồi tưởng đầy xúc động của vợ ông, bà An-giê-la Tê-da-ni - khách mời đặc biệt của tuần văn hóa và đoạn phim tư liệu quay lần phỏng vấn cuối cùng với Tê-da-ni, vừa được chiếu tại Viện Gớt.

Khi còn sống, nhà báo Tê-da-ni từng tâm sự: “Tôi không tự cho mình là chân lý: bản thân tôi cũng có chính kiến riêng, nhận xét riêng, cảm xúc và thiện cảm riêng và tất cả những cái đó ảnh hưởng đến việc tôi nhận ra và chọn viết cái gì”. Có thể vì vậy, Tê-da-ni, một nhà báo quốc tế lăn lộn suốt hơn 30 năm tại châu Á để viết các phóng sự chiến trường nóng hổi cho tờ Der Spiegel (Tấm gương). Ông là đặc phái viên của báo tại châu Á và một số tờ báo I-ta-li-a, trong đó có nhiều năm ở Việt Nam. Ông đã đứng về phía những người Cộng sản một cách rất tự nhiên. Ông từng viết trong một cuốn sách mang tên Giải phóng về sự kiện Sài Gòn giải phóng và những thay đổi của thành phố 3 tháng sau đó, rằng: “Mỗi thế hệ đều dựng lên những anh hùng để tự phân biệt mình, những anh hùng để lý tưởng. Và những người lính Cộng sản Việt Nam là anh hùng của thế hệ tôi”.

Bà An-giê-la là một nhà văn, cũng là một nhà báo đã đem con theo chồng bôn ba trong suốt những năm tháng ấy. Bà nhớ lại, có lần ông Tê-da-ni đột nhiên biến mất khỏi Sài Gòn trong vài ba ngày. Thì ra ông trốn tới Mỹ Tho để trực tiếp gặp gỡ những người lính cộng sản với mong muốn có được cái nhìn thật khách quan về những con người mà ông rất ngưỡng mộ. Lần đầu tiên ông bà tới châu Á vào năm 1972 với mục đích chính phản ánh về cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Cuộc chiến này khi đó đã thu hút rất nhiều sự chú ý của người dân các nước châu Âu vì ai cũng muốn biết vì sao một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam có thể dũng cảm đứng lên đấu tranh bảo vệ tự do, độc lập của mình.

Theo bà An-giê-la, Tê-da-ni ngưỡng mộ Việt Nam không phải chỉ vào lúc ông đặt chân đến Việt Nam, mà chính từ lịch sử đấu tranh chống các thế lực xâm lược bên ngoài của Việt Nam. Bà nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ riêng chúng tôi mà cả thế giới ngưỡng mộ”. Rồi đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, những người dân, người lính Việt Nam lại cầm súng đứng lên, vượt qua khó khăn gian khổ và một lần nữa lại giành chiến thắng. “Chính vì sự dũng cảm, quật cường như thế mà chồng tôi rất ngưỡng mộ đất nước Việt Nam”.

Tê-da-ni hòa nhập cùng khoảng 100 phóng viên nước ngoài khi ấy có mặt tại các điểm nóng ở miền Nam Việt Nam để viết những bài phóng sự sinh động về tình hình chiến sự. Nhà báo Tê-da-ni đã dám nói lên sự thật, viết ra những bài báo bị cho là xúc phạm chính quyền miền Nam và công khai phản đối các chính sách của tổng thống Thiệu. Tê-da-ni còn can đảm lên tiếng chống lại sự can thiệp của người Mỹ tại Việt Nam và công khai coi cuộc chiến đấu của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam là cuộc chiến yêu nước của người Việt Nam cần được thế giới ủng hộ.

Vậy nên tới gần thời điểm lịch sử Sài Gòn giải phóng, chính quyền ngụy sắp sụp đổ, ông bị trục xuất khỏi miền Nam. Song không cam chịu sau suốt 4 năm dài theo dõi cuộc chiến, đến thời điểm nó sắp kết thúc lại vắng mặt, nên Tê-da-ni đã mạo hiểm quay trở lại không cần vi-sa trên một chuyến bay từ Xin-ga-po. Thật may, khi máy bay đáp xuống Tân Sơn Nhất, tất cả cảnh sát sân bay đã biến mất nên không có ai kiểm tra “danh sách đen” trong đó có tên Tê-da-ni. Vậy là ông lại được trở lại Sài Gòn và có cơ hội cùng các đồng nghiệp khác chứng kiến cảnh xe tăng của Quân Giải phóng tiến vào dinh Độc Lập.

Chính vì tạo lập được mối quan hệ thân thiết với các chiến sĩ Cộng sản, nên sau ngày 30-4-1975, trong khi đa số các nhà báo quốc tế phải về nước thì Tê-da-ni vẫn được ở lại Việt Nam thêm 3 tháng. Trong 3 tháng đó, ông đã đi khắp các tỉnh miền Tây, rồi ra Hà Nội, được gặp nhiều lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam như đồng chí Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chính trong thời gian này, ông đã hoàn thành cuốn Giải phóng, thu hút được nhiều độc giả khắp nơi và được dịch ra nhiều tiếng Anh, Pháp, Đức và cả tiếng Việt. Cuốn sách còn được xuất bản thành một ấn phẩm rút ngắn để phổ biến trong các trường học ở I-ta-li-a. Cuốn sách Giải phóng được bình luận là “một cái nhìn đầy hào hứng và lạc quan về chiến thắng tất yếu của nhân dân Việt Nam”.

Đến năm 1995, cuốn Giải phóng được tái bản với lời mở đầu có tên “Hai mươi năm sau”, song nội dung thì vẫn hoàn toàn giống như hồi nó được viết năm 1975, nhằm mục đích giúp bạn đọc thuộc thế hệ mới dễ dàng tiếp cận hơn. Trong lời tựa 20 năm sau, Tê-da-ni viết: “... Mỗi dân tộc phải tự quyết định vận mệnh của mình, rằng các xã hội phải nhân bản và công bằng. Cuộc cách mạng Việt Nam cho thấy sự hứa hẹn ở tất cả những điều đó...”. Cuốn sách đầu tiên về cuộc chiến Việt Nam của Tê-da-ni được xuất bản trước đó là “Da báo”, ghi lại sự khủng khiếp của chiến tranh mà người dân miền Nam Việt Nam phải gánh chịu và những khó khăn về quân sự của Mỹ trong cuộc chiến.

Về cuối đời, Tê-da-ni bỗng muốn xa rời giới truyền thông và sống “mai danh ẩn tích”. Song nhà làm phim tư liệu I-ta-li-a Ma-ri-ô Da-nốt, nổi tiếng chuyên làm phim về các vĩ nhân trong lịch sử như Xê-da hay Thành Cát Tư Hãn..., bằng tài năng và nỗ lực rất lớn đã thuyết phục được ông xuất hiện lần cuối cùng trước công chúng trong một cuốn phim tư liệu mang tên: Anam-Người vô danh. Cuộc phỏng vấn cuối cùng với Ti-di-a-nô Tê-da-ni. Bộ phim được quay chỉ vài tháng trước khi Tê-da-ni qua đời vào tháng 7-2004, ở tuổi 66 vì căn bệnh ung thư.

Bài và ảnh:

MỸ HẠNH