Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trong cái chớp mắt của lịch sử. Đó là khoảng thời gian rất ngắn: 13-8 đến 28-8-1945, từ lúc Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng tới khi quân Đồng Minh kéo vào miền Bắc Việt Nam. Nếu ta bỏ qua thời cơ này thì cục diện sẽ khác. Việt Nam sẽ vẫn là một nước gồm ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ nằm trong Đông Dương thuộc Pháp. Trước mắt, trên miền Bắc sẽ có một chính quyền thân Tưởng, tại miền Nam, Pháp sẽ phục hồi bộ máy cai trị cũ. Cuộc chiến đấu giành lại độc lập của nhân dân ta sẽ bị xếp vào những “hoạt động phiến loạn do cộng sản cầm đầu”! Ai biết dòng chảy của lịch sử sẽ đi về đâu, với tốc độ nào?
Chính quyền mới được bầu ra thông qua tổng tuyển cử là chính quyền đại đoàn kết toàn dân. Trong cơ cấu Nhà nước không chỉ có đại diện của các đoàn thể cách mạng, mà còn có cả những đảng phái khác. Có chí sĩ yêu nước như cụ Huỳnh Thúc Kháng. Có những người của chế độ cũ như các ông: Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn... Có “công dân Vĩnh Thụy” (vua Bảo Đại mới thoái vị), giám mục Lê Hữu Từ ở chức vụ cố vấn. Một thời gian Quốc hội Việt Nam đã dành cho những người thuộc Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội thân Tưởng tới 1/5 số ghế, không qua bầu cử, vì họ không có hy vọng trúng cử qua tổng tuyển cử tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực thà đoàn kết lâu dài với những người thuộc mọi xu hướng, miễn là có tinh thần yêu nước để cùng mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân. Ngay cả sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Vĩnh Thụy đã bỏ nước sang Hồng Công, Bác vẫn cử cán bộ đi mời về để cùng tiến hành kháng chiến.
Trong chế độ mới, mọi công dân không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, giàu nghèo đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nông dân nghèo chiếm đại đa số trong xã hội, được giảm tô, giảm tức. Lần đầu tiên người lao động làm chủ vận mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân tài tích cực góp phần xây dựng đất nước. Tệ tham ô, nhũng lạm của những “quan cách mạng” chớm nhú đã bị lên án, đấu tranh. Chính sách tăng gia sản xuất đã chấm dứt nạn đói khủng khiếp. Quân đội quốc gia và dân quân, tự vệ, chỗ dựa và niềm tin của chế độ mới, nhanh chóng phát triển, đã lập tức chứng tỏ tinh thần và sức mạnh của mình trên chiến trường.
Việt Minh sau khi đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử lãnh đạo Tổng khởi nghĩa thắng lợi, đã tự nguyện đứng chung hàng cùng với các tổ chức chính trị, xã hội khác trong Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, một mặt trận đoàn kết dân tộc hết sức rộng rãi.
Chế độ mới ở thời kỳ phôi thai, chính quyền mới còn non trẻ, tổ chức lại rất phức tạp, nhưng đã đứng vững trước thử thách hiểm nghèo. Trên miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng đã không thể giúp bọn tay sai người Việt lật đổ chính quyền cách mạng. Ở miền Nam, hàng chục nghìn quân Pháp, được trang bị vũ khí hiện đại, bắt đầu sa lầy vào những chiến dịch bình định vô vọng trên khắp các làng quê tiếp giáp với đô thị.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày đó chưa được một quốc gia nào trên thế giới công nhận. Nhưng sự tồn tại của nó trên thực tế thì không mấy ai có thể phủ nhận. Quân đội Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc buộc phải tiếp xúc với Chính phủ ta. Hiệp định 6-3-1946, hiệp định quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam mới, được ký giữa Chính phủ ta và đại diện Chính phủ Pháp. Quốc kỳ Việt Nam đã tung bay tại thủ đô Pa-ri, trên kênh đào Xuy-ê, và những biển lớn nối liền Việt Nam với Pháp.
Trải qua bao nhiêu biến thiên, càng thấy rõ những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm trong công cuộc tái sinh nước Việt Nam và xây dựng chế độ mới từ thời đó, đã đặt nền tảng vững chắc cho dân tộc ta tiến lên một tương lai tươi sáng. Bản Tuyên ngôn độc lập, hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam, trên những vấn đề cơ bản, vẫn giữ nguyên giá trị. Ở đây chứa đựng những khát vọng, những yếu tố của thời đại mới, mà vẫn gắn liền với dân tộc, với con người, với truyền thống Việt Nam. Và điều có tính quyết định là chế độ mới chứng tỏ tính hơn hẳn của mình trong thực tiễn đời sống, đáp ứng nhu cầu bức thiết trước mắt cũng như nguyện vọng lâu dài của người dân.
Có thể hiểu vì sao tuyệt đại đa số nhân dân ta đã tự nguyện đứng lên chiến đấu tới cùng cho sự tồn tại của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cho những mục tiêu: độc lập, tự do, hạnh phúc.
Sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là nhân tố cơ bản không thể thiếu, bảo đảm cho sự toàn thắng của hai cuộc kháng chiến cứu nước.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp