Nhớ lời Bác dạy, phấn đấu “giúp ích cho Tổ quốc”

Trong một trận chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc vào tháng 2-1979, Binh nhất Lê Trọng Thành, Khẩu đội phó thuộc Trung đoàn 851, Sư đoàn 346, Quân khu 1 bị thương nặng. Trải qua hai ca phẫu thuật và 3 tháng nằm bất động, đến tháng 6-1980, ở tuổi 20, Lê Trọng Thành xuất ngũ trở về quê hương khi mất đi bàn tay phải, cùng các vết thương chằng chịt và mấy mảnh đạn pháo vẫn nằm trong cơ thể.

 Là thương binh khi đang ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời, trong khi bạn bè thì thỏa sức thực hiê%3ḅn ước mơ, hoài bão, Thành mới loay hoay “học lại” từ đầu. Do mất bàn tay thuâ%3ḅn, nên những viê%3ḅc trước đây rất đơn giản thì nay anh Thành phải khá vất vả thực hiê%3ḅn, bắt đầu từ việc nhỏ, như cầm đũa, rửa mặt cho đến viê%3ḅc khó hơn là tập đi xe đạp... Điều đó khiến anh hụt hẫng, mặc cảm, tự ti.

leftcenterrightdel
Thầy giáo thương binh  Lê Trọng Thành với các em học sinh Trường THCS Hóa Thượng. 

Mô%3ḅt lần, anh Thành tình cờ đọc được những lời đô%3ḅng viên của Bác Hồ dành cho thương binh, bê%3ḅnh binh. Từng lời, từng chữ như thấm vào tâm can anh: “Các đồng chí đã hy sinh một phần xương máu vì Tổ quốc, chẳng may bị thương, bị bệnh... Chắc các đồng chí không khỏi phân vân. Nhưng các đồng chí nên một mặt nuôi lại sức khỏe, một mặt cố gắng học tập. Khi đã khôi phục sức khỏe, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công tác tăng gia sản xuất, để giúp ích cho Tổ quốc…”. Lời dạy của Người giúp anh suy nghĩ lạc quan hơn và nhâ%3ḅn thấy cần phải có kiến thức để tìm công việc phù hợp với sức khỏe. Do vâ%3ḅy, anh quyết định đăng ký đi học lại và trở thành học sinh nhiều tuổi nhất trường cấp III vào thời điểm ấy.

Để theo học, anh Thành cần phải viết được. Đây là thách thức không hề nhỏ, bởi bàn tay trái còn lại cũng không lành lặn. Ba ngón giữa bị mảnh đạn pháo cắt ngang, dù bác sĩ đã nối xương nhưng do vết thương quá sâu nên bàn tay anh bị co lại, giờ cầm bút viết thì đúng là “cực hình”. Những tưởng anh sẽ bỏ cuô%3ḅc, nhưng với bản lĩnh của Bô%3ḅ đô%3ḅi Cụ Hồ, anh Thành coi đây là mục tiêu phải phấn đấu thực hiê%3ḅn bằng được.

Những buổi đầu, muốn cầm bút tâ%3ḅp viết, nhưng bàn tay “ngoan cố” không chịu nghe theo, anh vừa cầm đến bút là những ngón tay co quắp lại, cứng đờ. Hàng trăm lần cầm lên, rơi xuống khiến mực bắn vào người... Lúc đang bế tắc nhất, câu chuyê%3ḅn cuô%3ḅc đời cùng hành trình viết nên số phâ%3ḅn bằng đôi chân của thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký đến với anh. Nó như mô%3ḅt luồng gió thổi bùng lên đô%3ḅng lực và lòng quyết tâm vượt qua chính mình của chàng thanh niên trẻ. Anh Thành thổ lô%3ḅ: "Đọc xong cuốn tự truyê%3ḅn Tôi đi học của thầy Ký, tôi nhâ%3ḅn ra mình vẫn còn may mắn. Bởi thầy Ký bị liê%3ḅt cả hai tay, nhưng vẫn có thể dùng chân viết chữ, vâ%3ḅy tôi vẫn còn mô%3ḅt tay thì nhất định phải viết được”.

Nghĩ là làm, mỗi sáng anh Thành dậy sớm luyện cổ tay và ngón tay mềm mại hơn, sau đó tập cầm phấn, cầm que thâ%3ḅt chắc để vẽ xuống nền đất, vẽ gì cũng được miễn sao không bị rơi. Kiên trì trong hơn một tháng, anh bắt đầu cầm được bút và tập viết những nét chữ đầu tiên. Do viết bằng tay trái nên lúc đầu anh thường viết ngược, thêm nữa do không có điểm tì, nên chữ thường bị xô lệch, rất khó viết. Không nản chí, hằng ngày ngoài giờ học trên lớp, thời gian còn lại anh lao vào học viết; kiên trì viết từng nét sau đó đến từng từ, từng câu hoàn chỉnh. Mỗi ngày anh tự đề ra cho mình một mục tiêu phải hoàn thành. Sau đó, viê%3ḅc học viết cũng trở nên thú vị và hiê%3ḅu quả hơn khi anh thường tâ%3ḅp viết qua chính những bài thơ do mình sáng tác. Lúc này, nền kinh tế nước ta vẫn đang trong thời kỳ bao cấp, nên giấy, mực rất khan hiếm, để tiết kiê%3ḅm, anh Thành nghĩ ra cách “viết đi, viết lại”, nghĩa là sau khi viết kín trang giấy, anh không bỏ đi mà giữ lại và đem phơi cho khô, sau đó “tô” lại đúng những nét chữ đã khô mực ấy. Nhờ thế mà anh vừa quen được cách uốn nét chữ, vừa có đủ giấy tâ%3ḅp viết.

Với ý chí và sự kiên trì khổ luyê%3ḅn, sau 3 năm, thương binh Lê Trọng Thành đã vượt qua "cuộc chiến" với chính mình. Niềm vui nhân đôi, khi anh thi đỗ vào Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc (nay là Đại học Sư phạm Thái Nguyên). Đến năm 1987, đang là sinh viên năm thứ hai, anh đạt giải ba toàn quốc Cuô%3ḅc thi viết “Bác Hồ-tấm gương đẹp nhất” do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát đô%3ḅng. Đây là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực không ngừng của anh.   

Kiên trì vượt khó, “cõng chữ lên non”

Ra trường, anh Thành về giảng dạy tại Trường THCS Văn Hán (xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên). Đây là một trong những xã miền núi nghèo nhất của tỉnh lúc bấy giờ. Về công tác mô%3ḅt thời gian, anh thấy học sinh bỏ học nhiều  do cuô%3ḅc sống còn nhiều khó khăn. Trăn trở với tương lai của học trò, thầy giáo Thành tranh thủ một buổi lên lớp, một buổi đạp xe qua những cung đường nhiều đèo, lắm dốc, vào từng gia đình vâ%3ḅn đô%3ḅng các em trở lại trường. Có lần, do nhà học sinh ở trên núi cao, không đi xe lên được, anh Thành phải cuốc bô%3ḅ gần chục cây số. Nhưng khi đến nơi thì cả gia đình đi rừng chưa về, anh phải chờ đến tối. Mô%3ḅt lần khác, đang dắt xe xuống dốc, đường trơn nên anh bị ngã. Trong lúc người lấm lem bùn đất thì anh gặp học trò trên đường đi nương về. Thầy trò nhìn thấy nhau chỉ muốn khóc, còn bố mẹ các em thấy thầy giáo như vâ%3ḅy thì rất cảm đô%3ḅng và quyết định cho con đi học lại.

Có gia đình, anh phải kiên trì vận động hàng chục lần mới nhâ%3ḅn được cái gâ%3ḅt đầu chấp thuâ%3ḅn của phụ huynh học sinh... Ngày qua ngày, khi những con đường đất ngoằn nghèo, nắng bụi mưa lầy đã in dấu chân thầy Thành trên khắp mọi nẻo, cũng là lúc số học sinh quay trở lại với trường, với lớp ngày một nhiều hơn.

Trong hành trình ấy, có hôm đang trên đường về thì xe bị thủng săm. Sửa xong, anh gửi tiền nhưng bác chủ nhà không lấy vì biết anh là thầy giáo thương binh Lê Trọng Thành. Lúc chia tay bác còn biếu anh mấy cân gạo nếp "để làm quà cho cô ở nhà". Anh Thành ái ngại lắm, nhưng bác cười xòa và bảo: “Thầy không biết chúng tôi, chứ người dân cả xã này đều biết thầy là thương binh. Tuy chỉ còn một tay nhưng thầy vẫn đạp xe hơn 20 cây số lên đây dạy học. Người khỏe như chúng tôi đi còn mê%3ḅt, vâ%3ḅy mà thầy vẫn kiên trì mang con chữ lên cho bọn trẻ, bà con chúng tôi cảm phục lắm!”.

Giáo viên giỏi và tình yêu văn thơ

Gần 30 năm thầy giáo thương binh Lê Trọng Thành đứng trên bục giảng, dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng bằng tình yêu nghề và tinh thần tự học hỏi, trau dồi kiến thức nâng cao trình độ, nên nhiều năm liền, học sinh của thầy Thành đều đạt thành tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi của trường và huyện. Bản thân thầy giáo Lê Trọng Thành cũng là giáo viên dạy giỏi. Dù đạt nhiều thành tích xuất sắc, nhưng vui nhất với người thầy thương binh này là khi được đứng trên bục giảng chăm lo cho thế hệ tương lai của đất nước. Đó có thể là lúc thầy say sưa với từng trang giáo án, hay phút giây học trò tròn mắt, xúc động nghe thầy kể về cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc mà thầy đã trải qua...

Em Tống Thị Mỹ Linh, học sinh lớp 8C, Trường THCS Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ tâm sự: "Buổi học đầu tiên, chúng em ai cũng thắc mắc không hiểu sao thầy lại viết được tay trái? Sau khi biết về quá trình thầy vượt qua số phâ%3ḅn để trở thành thầy giáo đứng trên bục giảng, em và các bạn rất cảm phục. Từ đó, em thấy mình cần phải học thâ%3ḅt giỏi để học tâ%3ḅp, noi gương thầy và không phụ công thầy dạy dỗ. Với chúng em, thầy Thành chính là “Nguyễn Ngọc Ký” thứ hai!".

Nói về người anh, người đồng nghiệp của mình, cô Trần Thị Kết, Hiệu trưởng Trường THCS Hóa Thượng-nơi thầy Thành đang công tác, tự hào: "Không chỉ vững chuyên môn, thầy Thành còn tích cực trong giảng dạy và sẻ chia với đồng nghiệp trong cuộc sống, nên luôn được đồng nghiệp yêu quý, tin tưởng. Thầy Thành thực sự là tấm gương sáng để các thầy giáo, cô giáo và học sinh nhà trường noi theo".

Văn giỏi, thơ hay, thầy Thành còn là cô%3ḅng tác viên thường xuyên của nhiều tờ báo, tạp chí trong và ngoài tỉnh Thái Nguyên. Tôi đã đọc quyển thơ với hàng trăm bài, được viết bằng nét chữ nghiêng nghiêng, do thầy Thành sáng tác. Có bài thơ được làm từ ngày đầu tiên anh thương binh Lê Trọng Thành cầm bút học viết, có bài là cảm xúc khi anh trở thành thầy giáo, nhưng nhiều hơn cả là những bài thơ anh viết về tình yêu dành cho người vợ đã đồng cam cộng khổ với mình nhiều năm, như trong bài thơ Nửa vòng tay: “Anh về với nửa vòng tay/ Như vầng trăng khuyết đêm nay bồi hồi/ Thương nhau nên giữ lấy lời/ Nên tình yêu chẳng hề vơi tháng ngày/ Dẫu còn mô%3ḅt nửa vòng tay/ Nửa em bù lại tròn đầy vầng trăng”.

Bài và ảnh: HƯƠNG DỊU