QĐND - Tu thân là việc đầu tiên cần làm, dân cũng vậy mà bộ đội cũng vậy.
Sử Việt ghi rõ, dưới thời Lý Nhân Tông (1072-1127), năm Ất Mão 1075, vua mở khoa thi tam trường, còn gọi là Minh kinh bác học, để chọn người tài ra làm quan. Đó là đại khoa đầu tiên ở nước ta, Trạng nguyên đầu tiên là thủ khoa Lê Văn Thịnh. Năm Bính Thìn 1076, vua cho lập Quốc Tử Giám, trường đại học Việt đầu tiên, chọn những người tài giỏi vào dạy. Đến thời Lê Thái Tông (1434-1442), năm Nhâm Tuất 1442, bắt đầu ra lệnh soạn văn bia và dựng bia tiến sĩ. Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497), bia tiến sĩ được dựng thường xuyên sau các khoa thi, cùng với việc tiếp tục mở rộng Quốc Tử Giám. Lê Thánh Tông cũng chính là người giải án oan Lệ Chi Viên đẫm máu và nước mắt của Nguyễn Trãi và cho sưu tầm được hơn 100 bài thơ của cụ Nguyễn.
Trọng nhân tài như thế nên thời của Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông đều là thời thịnh.
Ngoài con đường thi cử, các vua Việt xưa còn mở ra cơ hội cho nhân tài bằng con đường tiến cử. Tiến cử nhân tài cho nhà nước phong kiến được coi là quyền lợi và trách nhiệm của các quan lại xưa. Nếu tiến cử đúng thì được ban thưởng. Nếu tiến cử sai, khi người được tiến cử mang tội, thì người tiến cử cũng phải chịu tội theo. Rất nhiều văn thần, võ tướng ta được phát hiện, được dùng và lưu danh, qua thi cử, tiến cử và cũng khối kẻ tiến cử sai, đã phải khóc ròng.
Thời thịnh là thế và thế thì mới thịnh.
Sau này, chúa Trịnh Cương (1709-1729) cũng làm rất gắt chuyện thi cử và tiến cử. Năm Bính Ngọ 1726, đại thần Nguyễn Công Cơ tâu lên chúa rằng, thi cử đợt ấy có nhiều việc không minh, phần lớn con em nhà quyền thế đỗ Hương cống không có thực tài. Trịnh Cương hạ lệnh cho thi lại, đánh hỏng 28 người, trong đó có cả con Tham tụng (đại thần) Lê Anh Tuấn, con nuôi Huân quận công (đại thần) Đặng Đình Giám, con nuôi Nội giám (đại thần) Đỗ Bá Phẩm... Đám này được giao xuống cho pháp đình xét hỏi và trị tội nặng. Nguyễn Công Cơ, vì dám nói thẳng được thăng Thiếu bảo. Việc này rất nên được học tập khi tiến hành các đợt “khảo thí” và “phúc khảo”, thậm chí là phải “truy khảo”, ở ta bây giờ.
Trước đó, năm Giáp Thìn 1724, chúa còn cho phép dân chúng yết bảng để “góp ý” với quan lại địa phương, chỉ yêu cầu phải “công bằng”, “không khen, chê bậy bạ”.
Con thứ ba của Trịnh Cương là chúa Trịnh Doanh (1740-1767), cũng cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ cáo giác của dân chúng về những việc làm sai trái của quan lại; định lệ các quan từ tam phẩm đến nhất phẩm, mỗi ngày hai người, vào phủ để chúa hỏi về chính sự. Mỗi khi tuyển chọn và cất nhắc quan lại, Trịnh Doanh đều theo nguyên tắc thực tài. Chúa quy định rằng, bất cứ ai, trước khi được Bộ Lại bổ dụng, cất nhắc, phải được dẫn vào phủ đường yết kiến chúa, để chúa trực tiếp sát hạch, ai thực có khả năng mới được trao cho quyền chức.
Sau này nữa, vua Minh Mệnh (1820-1840) nhà Nguyễn cũng luôn ra coi chầu rất sớm, xem xét tấu sớ, tự tay “châu phê” rồi mới cho thi hành. Quan lại ở các thành, dinh, trấn..., ai được bổ nhiệm đều cho đến kinh bệ kiến để vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo.
Sử sách chép rằng, năm Nhâm Ngọ 1822, Lê Văn Liêm được Thự tiền quân Trần Văn Năng tiến cử làm Tri phủ
Ninh Giang, Bộ Lại đưa Liêm vào bệ kiến, vua xét hỏi, Liêm đáp là mình ít học. Minh Mệnh bảo: “Tri phủ giữ chính lệnh trong một phủ, không học thì không rõ luật lệ, nhỡ khi xử đoán sai thì pháp luật khó dung, như thế là làm hại chứ không phải là yêu”. Thế là Liêm không được bổ nhiệm.
Nhà vua công bố thuật dùng người: “Nay dùng người, không ngoài hai con đường là khoa mục và tiến cử. Người giỏi khoa mục không chắc đã giỏi chính sự. Nhưng cũng chưa có ai học nuôi con rồi sau mới lấy chồng. Chính sự cốt ở yên dân. Muốn yên dân thì đừng phiền dân. Làm quan phủ huyện, không tham, không nhũng nhiễu dân, thì chính sự có khó gì đâu”. Nhà vua học Lê Thánh Tông, đặt Quỹ Dưỡng liêm (nuôi sự liêm chính) để thưởng cho các tri phủ, đồng tri phủ, tri huyện, tri châu liêm chính, nhưng cũng luôn nghiêm trị bọn tham nhũng. Đã có kẻ lại, không dùng thước gạt thăng khi đong thóc thuế, chỉ dùng tay để dễ bề gạt gian, vua đã lệnh chặt ngay tay tên lại đó.
Thế là qua thi cử và tiến cử, cha ông ta tỏ ra rất trọng nhân tài, cố tìm nhân tài để bổ dụng, cất nhắc. Nhưng cha ông ta cũng rất nghiêm cẩn trong phép dùng người, để sao cho nước được lợi, để nhân tài không bị bỏ phí, mà cũng là để cho nhân tài không bị thui chột, tha hóa bởi những thói tật của người đời, nhất là những thói tật ở chốn quan trường. Chốn quan trường, như đã biết, thời suy thì thậm nhiều thói tật đã đành, mà ngay ở thời thịnh, những thói tật ấy cũng lắm khi gây ra nhiều việc kinh hoàng. Sử ghi rõ, thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông là thời thịnh, mà dưới tay đám quyền thần Lê Sát, Lê Ngân, Lê Quốc Khí, Trịnh Hoành Bá, Lê Đức Dư..., những trung thần như Bùi Ư Đài, Bùi Cầm Hồ vẫn bị cách chức một dạo và điển hình đau đớn nhất là việc Nguyễn Trãi bị “tru di tam tộc” sau vụ Lệ Chi Viên đấy thôi? Vì lẽ đó mà Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông các đời trước và Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Minh Mệnh sau này, mới trọng nhân tài, nghiêm cẩn trong việc dùng người và chính sự đến thế.
Tóm lại, trọng nhân tài, dùng nhân tài, có chính sách để nhân tài không bị chèn ép, có luật lệ để quan lại không bị tha hóa, tham nhũng thì như vua Minh Mệnh đã nói, “chính sự có khó gì đâu”. Chặt tay kẻ đong điêu thóc thuế, Minh Mệnh giống với Trần Thủ Độ đầu đời Trần, khi có kẻ nhờ Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung (vợ Trần Thủ Độ), xin hộ chức Câu đương (một chức quan bé tí tẹo ở xã), Thủ Độ, vì không muốn đôi co với vợ, đã giả bộ đồng ý, lại còn ghi rõ tên họ, quê quán kẻ ấy. Đến lúc gặp kẻ kia, ông bảo: “Ngươi vì có Quốc mẫu xin cho được làm Câu đương, không thể ví như những Câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt”. Đương sự kêu van xin thôi, mãi ông mới tha cho. Từ đó, không ai dám nhờ cậy việc riêng nữa. Trần Thủ Độ và Minh Mệnh rõ là những nhà cầm quyền gương mẫu trong việc chống tham nhũng, luồn lọt, nhằm đẩy lùi nạn tham nhũng, đẩy lùi thói tật quan trường, để nhân tài thì được trọng dụng, đám tiểu nhân, tha hóa thì bị trừng trị, để cho dân yên, để cho “chính sự nào có khó gì” v.v..
*
* *
Học tập cha ông, Đảng ta đã ra nhiều nghị quyết để làm trong sạch Đảng. Làm trong sạch Đảng, trước hết là làm trong sạch bộ máy chính quyền mà Đảng ta lãnh đạo. Thật phúc cho dân ta! Mong rằng, các nghị quyết ấy thành công để “tham nhũng” không “làm chúng ta nghèo đi”-nghèo về vật chất, nghèo về tinh thần, để xã hội nhiều an lành, hạnh phúc. Và, mỗi người dân, mỗi người lính đều cần nghĩ kỹ về con đường tiến thân của mình, sao cho thật chính đáng. Được thế thì “chính sự có khó gì đâu!”.
SONG QUẾ