QĐND - Bộ sách kho tàng vè xứ Nghệ gồm 9 tập đồ sộ, được hoàn thành bởi nhà sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian lão thành Ninh Viết Giao, với sự cộng tác của nhiều cộng sự đã cho ta một nhận định không thể khác được: Nghệ Tĩnh là một vùng văn hóa vè phát triển nhất cả nước. Vè xứ Nghệ chủ yếu được diễn xướng theo làn điệu hát giặm, mà đã hát giặm thì chủ yếu là dưới hình thức văn vần hoặc thơ năm chữ (ngũ ngôn). Điều này dẫn đến một nhận định tiếp theo: Đây là vùng sở trường của sáng tạo thể thơ ngũ ngôn. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, giặm không chỉ là vè, mà mở rộng công năng thể loại để hình thành các lối hát khác nhau như: Giặm kể, giặm tình, giặm ru, giặm ai… để đáp ứng nhu cầu không chỉ kể chuyện mà còn thể hiện tình cảm của nhân dân. Trên cả hai bình diện tự sự và trữ tình, giặm đều đắc dụng. Sự phát triển phong phú của nó đã tạo nên một vốn liếng nghệ thuật cho những ai lớn lên trong cái nôi văn hóa đặc biệt này.
Thể lục bát là của cả nước, thể ngũ ngôn kết tụ như đặc sắc của vùng văn hóa này. Trong cuộc đổ xúc xắc văn hóa dân gian, có thể nói không gian Nghệ Tĩnh là tụ địa của thể thơ đa năng đó. Dân đã chọn nó và nó đã làm nên bản sắc không thể phai mờ. Có thể nói không ngoa rằng, mỗi người Nghệ Tĩnh đi ra, trong hành trang tinh thần của họ, thể thơ năm chữ theo kiểu giặm trở thành một nếp nói, một nếp nghĩ, một nếp sáng tạo. Người xưa hằng dạy: “Bất học thi vô dĩ ngôn”, thì người Nghệ đã ngấm “thi” từ thuở nằm nôi, “thi” của những câu ru, câu vè, câu giặm. Cho nên, người Nghệ đi ra hay mắc cái “tật” bắt vần, bẻ chữ, nói lối khiến cho không phải ai nghe cũng thấy đẹp lòng. Và trong sáng tạo thơ ca của họ, từ giặm sang thơ một cách tự nhiên, tất yếu. Họ thường bắt đầu bằng thơ ngũ ngôn kiểu giặm để bước đi trên con đường nghệ thuật của mình.
 |
Hát mừng ví, giặm được UNESCO vinh danh "Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại". Ảnh: TRẦN HOÀI |
Trong thơ ca hiện đại Việt Nam, không thể không nhắc tới bài thơ "Thăm lúa" (1950) của nhà thơ Trần Hữu Thung. Theo nhà thơ Võ Văn Trực, thi phẩm được bác Trần Hữu Thung sáng tác rất nhanh để hát trong một đám cưới. Và tác giả bài viết này, trong thập niên 1960, áo đứt cúc, quần xà lỏn, đứng sau hàng rào xem cưới vẫn nghe các anh chị đoàn viên hát bài này. Cứ vào đám là người ta bảo nhau “Đi thăm lúa đê!”, thế là hát. Từ dân gian lại trở về với cội nguồn của nó. Bài thơ đã sớm được thừa nhận như một giá trị trong lòng nhân dân đang kháng chiến chống Pháp vô cùng quyết liệt, cam go để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành lại được. Cũng là “kể” như cội nguồn từ giặm nhưng đây là tâm tình “tự kể” của một thôn nữ gửi đến người yêu thương của mình, một người lính đang ở chiến trường. Chuyện riêng hai người biết thôi nhưng mà đầy âm vang, đầy âm hưởng lan tỏa đến cộng đồng. Cái riêng đó chính là điều cốt tử để nó thành thơ, nhưng sức lay động rộng lớn chính là điều khẳng định giá trị của nó. Việc thi phẩm đoạt giải thưởng quốc tế Bu-đa-pét năm 1953 hay được vào sách giáo khoa là điều tất yếu kéo theo.
Sau "Thăm lúa", chúng ta nghĩ ngay đến “Đêm nay Bác không ngủ” (1951) của nhà thơ Minh Huệ. ở bài thơ này, tính kể chuyện đậm đà hơn nằm chủ yếu ở cách kể theo tuyến tính thời gian của nó. ở đây, không có sự “nhớ lại” hồi tưởng như bài "Thăm lúa", về mặt này, tính giặm rõ hơn, nhưng ở mặt khác, âm hưởng bài thơ không thể “hát” được, mà chỉ có thể ngâm hoặc đọc lên kiểu “độc thi” giọng Nghệ. Tác phẩm nghiêng về phía thơ ca. Những khoảnh khắc hiện thực trong thời gian từ khuya tới gần sáng được tác giả rắc-co (raccoder) như thủ pháp điện ảnh. Chúng ta thấy hiển hiện một cảnh phim với hình ảnh và đối thoại. Lãnh tụ Hồ Chí Minh được phát hiện từ góc độ bình dị, đời thường nhưng đầy tình người, hàm chứa một năng lượng tinh thần mang tính nhân văn cao cả. âm giai câu mở đầu, cách kể câu chuyện, từ vựng dùng để kể, cấu trúc chia khổ mạch lạc của văn bản mách với chúng ta ảnh hưởng khó phai nhòa của giặm, dù bài thơ đã bước sang địa hạt đậm tính “thơ”.
Những người con Nghệ Tĩnh bước vào địa hạt thơ ca thường là như vậy. Có người cho rằng, các nhà thơ ở những vùng đất khác cũng thành công ở thể năm chữ đấy thôi. Dài như bài "Chùa Hương" (1934) của Nguyễn Nhược Pháp (34 khổ), ngắn như "ông đồ" (1936) của Vũ Đình Liên (5 khổ)… vẫn là thi phẩm để đời. Đúng vậy nhưng mà cũng khác vậy. Những người suốt ngày ê a ví, giặm như chúng tôi dễ nhận ra ngay qua một thao tác đơn giản nhất. Trong hát giặm, người ta chia bài hát thành các trổ, mỗi trổ thường là 4 câu (có thể biến thể 5, 6 câu khi cần), câu cuối trổ thường láy lại (có biến đổi tí chút). Đặc biệt, ở câu cuối trổ này, tiếng cuối cùng của nó nhất thiết phải là âm trắc. Không âm trắc không láy lại được. Khi vào thơ, các khổ thơ cũng tương tự như các trổ hát. Nhìn vào tiếng cuối của khổ thơ, cái tần số xuất hiện của âm trắc cuối khổ sẽ chỉ ra mức độ đậm nhạt chất giặm mà tác phẩm còn lưu dấu. Trong những phái sinh của nó, những tiếng mang thanh huyền (âm vực thấp, giọng trầm) thường xuất hiện nhiều. Điều đó, dù là một chỉ số nhưng nó giống như nguyên tử được đánh dấu vậy.
Để ý kiến của mình được thẩm định, tôi đọc thơ của nhà thơ Vương Trọng trên mạng thì thấy, trong 141 bài trên đó, thể năm chữ chỉ có 4 bài. Tôi vội vã gọi cho anh: “Anh ạ, sao anh làm thơ thể năm chữ ít vậy?”. Anh trả lời ngay: “Nhiều chứ, ít nhất là vượt trội so với thể sáu chữ. Ai từ quê ta đi ra mà không có thể năm chữ từ tâm khảm của mình, nó như một thứ vốn liếng trời cho vậy”. “Em thấy anh hay kết thúc khổ bằng âm bằng, đúng không?”. “Điều này thì đúng. Tớ cho rằng, gốc từ dân gian nhưng khi mình làm thơ thì hướng đến sự sáng tạo, ít ra vượt qua được kiểu nói lối, kể vè của các cụ. Như cụ Nguyễn Du ấy, cũng là lục bát thôi nhưng cụ đã biến nghệ thuật của nó trở nên siêu việt, mang giá trị bác học và phổ quát toàn dân tộc. Trên mạng chỉ một số thôi, mình sẽ gửi cho ông hai tập đầy đủ hơn”. Và tôi đã nhận được hai tập của nhà thơ, trong đó có tới 28 bài thơ năm chữ. Té ra, cái mạch ngầm ví, giặm vẫn không thôi nuôi nấng tâm thức của nhà thơ.
Một lần khác, tôi lại ra thăm nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ. Khoái nhất khi đến với ông là được và chỉ nói chuyện chuyên môn, không đàm luận thế sự mua vui nên học được rất nhiều. Nhạc sĩ tâm tình: “Sáng tác âm nhạc theo phong cách dân gian là sử dụng chất liệu của nó nhưng phải giống như con rồng bay lên, còn để chất liệu kéo áo mình thì thà viết lời cho dân ca còn hơn. Đã là nhạc sĩ thì phải chuyên nghiệp, phải sáng tạo. Phong cách là dân gian nhưng chất lượng phải rất bác học. Đó mới là, và cũng chính là một con đường bảo lưu và phát triển văn hóa truyền thống hữu hiệu”.
Một câu chuyện khác vui vui cũng tiện kể ra đây. Một phóng viên được phân công đi viết phóng sự về một giám đốc mắc tội tham nhũng. Anh này về quê vị ấy để lấy tư liệu những chuyện xây dựng tư gia, nhà thờ họ, đường sá hoành tráng. Trong bài viết có đoạn kể rằng, trẻ con làm vè hát và chép mấy đoạn câu hát đó. Viết xong nộp bài. Ngay lập tức Tổng biên tập gọi lên chỉnh luôn: “Cậu bịa cũng vừa vừa chứ. Hát vè kiểu giặm này thì ngoài Bắc không đâu có. Chỉ người Nghệ các cậu thôi. Bỏ ngay. Không ai bảo được bịa như thế này trong phóng sự cả”. Bị đọc vị, chàng phóng viên phải nhận khuyết điểm của mình và chịu là “sếp” thật tinh tường.
Cái chất giặm từ "thâm căn cố đế" nó là như vậy. Nhiều khi ta mang nó suốt cuộc đời mà không để ý. Nó tồn tại trong bản ngã để chỉ ra rằng, anh luôn luôn là sản phẩm của một nét văn hóa mà cha mẹ, làng nước, nắng gió, nhọc nhằn, quả cảm… đã tích tụ nên. Xa rời nó, lắm lúc anh sẽ cảm thấy mình đi lâng đâng trong dòng chảy cuộc đời này.
NGUYỄN HÙNG VĨ
(Nhà nghiên cứu văn hóa)