Từ dạo mở phố đi bộ, quảng trường quốc tế cùng mấy con phố, ngõ ngách lân cận trở thành “cục nam châm”. Nhà nhà mở quán, mở tiệm. Hè đường kín đặc bàn ghế, người ngồi và xe gắn máy. Hễ lực lượng trật tự lơ là, tất cả ùa xuống mặt đường. Bàn nhỏ, ghế bé kê dày khít. Thực khách gọi món, ăn và uống, nói và cười tự nhiên. Anh đi bộ luồn lách, ngó nghiêng. Chị ngồi co, nghếch nghếch nhìn. Biết rằng quá chen chúc, nhận ra rằng thiếu tiện nghi, ấy vậy cứ đến, cứ lăn xả vào và vẫn vui vui.
Phố cổ, sống bộn bề, sống nhộn nhịp đến ngỡ ngàng, hôm nay xem ra đã tự tìm thấy sự tiếp nối, mới mẻ mà tự nhiên cho dòng chảy muôn thuở của mình. Bảo tồn mà vẫn thích ứng với thời đại, tiến hóa mà vẫn bảo lưu nguồn gien. Phố cổ cũ kỹ mà không trở thành tàn dư, là di sản mà không biến thành di tích. Phố cổ-di sản đô thị sống động, dung hòa trong cơ thể thành phố chuyển động và biến đổi, không thể có phương thức nào khác cho nó.
Phố cổ và nét đẹp đời thường. Ảnh: HỒ HẠ
Khu phố cổ-36 phố phường Hà Nội xưa, rộng chỉ 82ha, với 79 tuyến phố, hàng trăm con ngõ, hàng ngàn cái ngách và 83 ô phố. Không có gì đồ sộ, không có gì lộng lẫy, càng không có gì gây choáng ngợp. Tất cả đều nhỏ bé, chật hẹp, cũ kỹ, vá chắp, thậm chí cả sự tạm bợ… Song cơ ngơi của khu phố cổ lại là một tích lũy vật chất-văn hóa-nhân văn kiệt xuất và còn sót lại hiếm hoi trong công cuộc hiện đại hóa thời nay. Các nhà chuyên môn lọc sàng và kiểm đếm được những 553 công trình kiến trúc có giá trị, trong số đó 205 công trình có giá trị đặc biệt. Đối với di sản đô thị cổ, sự đong đếm này chưa thể xác nhận đủ và đúng những giá trị vừa bản chất và vừa bao trùm của nó. Ta có thể khái quát: Giá trị với tư cách là một phức hợp kiến trúc đô thị còn khá đầy đủ về thể loại và đa dạng về kiểu cách kiến trúc, giá trị về các phương thức hoạt động kinh tế thương mại, sản xuất thủ công truyền thống, giá trị về văn hóa sống nơi thị thành Việt.
Có lẽ phố cổ Hà Nội là sự hiện hữu đầy đủ của hình ảnh đô thị Việt qua các giai đoạn lịch sử trước nó. Hạt nhân cấu thành phức hợp không gian đô thị này là phố, đường phố, vốn là thành tố chuyển tiếp trong các chuỗi tiến hóa văn minh cộng cư Việt, từ làng sang phố, từ phố sang thị. Phố tọa lạc dọc đường, dọc sông với hai dãy nhà dựng san sát hai bên, là nơi cư trú, làm hàng, thu gom và bán hàng. Hình thái này tồn tại khắp nơi và lâu dài. Cho đến thời chưa xa, người ta chỉ biết phố Sơn Tây, phố Hà Đông,… 36 phố phường Hà Nội chính là sự tự phát, không có quy hoạch theo cách hiểu ngày nay, nhiều nhiều con phố. Đặc sắc hơn những con phố ấy lại thường có xuất xứ từ những làng quê sản sinh và đặc sản hóa những mặt hàng của mình. Bởi vậy mà ở khu phố cổ, đa phần những con phố mang tên nghề, sản phẩm. Cái lối đặt tên này bắt gặp ở các đô thị thời Trung cổ.
Loại hình đặc sắc và phổ biến hơn cả là căn nhà mặt phố đặt bên đường, có chiều ngang hẹp, chiều sâu nhiều lớp. Bên ngoài là nơi làm hàng, bán hàng, giao thiệp. Tiếp là cái sân vừa để lấy ánh sáng và vừa để thông gió. Rồi không gian cư trú, một cái sân nữa và trong cùng là khu hậu cần. Trên tầng lửng là nơi đặt bàn thờ. Sau này, xuất hiện những kiểu nhà gạch ngói, nhà kiểu Tàu và kiểu thuộc địa, thường cao 3 tầng. Không kém phần đặc sắc là những loại hình kiến trúc tín ngưỡng và tôn giáo. Trong khu phố cổ vẫn còn những 58 ngôi đình, 8 ngôi chùa, 25 ngôi đền, 5 am miếu, 2 hội quán… Sự hiện hữu dày đặc những thiết chế tâm linh kể trên chứng minh về sự vững bền của nền tảng tinh thần trong đời sống dân cư thị thành, sự gắn bó tế bào của phố thị với thôn quê xuất xứ. Độc đáo hơn cả là sự tồn tại của khá nhiều ngôi đình thờ các tổ nghề như đình Kim Ngân, 42 Hàng Bạc, thờ tổ đúc bạc.
Người Hà thành cổ truyền vốn nền nếp, ý tứ, nhún nhường, chu đáo, quảng giao, tế nhị, khéo léo… Ấy vậy vẫn bộc lộ rõ sự tháo vát, sự bền bỉ, khả năng thích ứng. Hơn thế nữa, người Hà Nội cũ có tài hưởng thụ, có máu tài tử. Chẳng thế mà, những năm 20, 30 và 40 của thế kỷ trước, cuồn cuộn những làn sóng văn học và nghệ thuật tiểu tư sản Hà thành. Người buôn bán nhờ cậy vào chữ “tín”, tín nhiệm, tin cậy lâu bền, truyền miệng, ghé tai nhau mà đến mua hàng. Chẳng cần tới quảng cáo chữ to, màu mạnh và lời lẽ giật gân.
Ngót 30 năm trước, công cuộc bảo tồn di sản phố cổ bắt đầu. Nó được công nhận là di tích lịch sử và từ nhận thức ấy, nó được bảo tồn nghiêm ngặt bằng quy chế như đối với di tích, nghĩa là phải giữ nguyên. Song phố cổ là nơi ăn ở và sinh nhai của ngót 7 vạn người. Nơi tấc đất, tấc vàng, nơi vài mét vuông vỉa hè có thể nuôi sống cả mấy gia đình, nơi người phố làm ăn giỏi giang và kiếm tiền mắn hơn nơi khác. Cuộc sống phải chảy và cải tiến cho hợp thời. Di tích hóa và bảo tàng hóa chẳng khác gì cái việc thắt ga-rô, chặn đứng dòng máu. Các văn bản khống chế và các biện pháp quản lý bất lực trước nhu cầu cuộc sống. Nhà cửa phố xá thay đổi theo những cách nào đó. Vô số homestay, khách sạn mini, nhà hàng và cà phê, cửa hiệu xuất hiện, tận dụng khéo léo các ngôi nhà cũ hoặc xây mới. Dân phố cổ dần dần, sau tăng tốc trong các hoạt động dịch vụ, thương mại, gia công hàng hóa, hướng chủ yếu vào phục vụ khách du lịch. Đêm đêm, khoảng 5 nghìn du khách nán trọ trong các khách sạn nơi phố cổ. Có những quán cà phê, lối vào không đủ cho hai người ra vào, ấy vậy mà, trong mê cung những gian phòng vắt kiệt không gian trống, kín đặc những du khách từ bốn phương trời.
Vài năm nay, chính quyền thành phố đã có những nỗ lực cứu vãn và sinh động hóa nhiều di tích, căn nhà cổ, những mảng phố. Giải tỏa ngót hai chục hộ dân chiếm cứ đình Kim Ngân ở phố Hàng Bạc tốn 40-50 tỷ đồng để phục sinh nó. Giải tỏa con phố Đào Duy Từ bị xây lấn thành con ngõ và xây mới một trung tâm giao lưu văn hóa, mới mẻ và không xa lạ. Phố Đinh Liệt, phố Lãn Ông đã được chỉnh trang, đẹp và sáng hẳn lên… Từ hai phía, cộng đồng dân cư và chính quyền, đã vạch ra rõ rành con đường duy nhất phù hợp và duy nhất khả thi đối với di sản đô thị phố cổ, kết hợp nhuần nhuyễn bảo tồn, cải tạo và hiện đại hóa.
Thủ đô nay rộng hơn 3.000km2. Nếu chúng ta khéo nối kết các di sản khu phố cổ, khu vực hồ Hoàn Kiếm, các khu phố thời thuộc địa, khu vực Hoàng Thành, trung tâm chính trị Ba Đình và vùng Hồ Tây thành một thực thể lịch sử-văn hóa-cảnh quan gắn quyện, chắc chắn Thủ đô sẽ có một lõi-trung tâm tương xứng. Có nó, Hà Nội dù hiện đại, dù biến đổi đến thế nào đi chăng nữa vẫn mãi mãi là mình, không bao giờ đánh mất đi khuôn mặt và tâm hồn riêng tư của mình.
GS, TS, KTS HOÀNG ĐẠO KÍNH