QĐND - Đúng như tên gọi, “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo năm 1945 là lời tuyên bố độc lập của dân tộc Việt Nam, một quốc gia có chủ quyền, trước toàn thể nhân dân cả nước, nhân dân và các dân tộc trên thế giới, khẳng định một sự thật lịch sử, ý chí và sức mạnh bảo vệ nền tự do và độc lập của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
 |
Mít tinh tại Nhà hát Lớn Hà Nội, tháng 8-1945. Ảnh tư liệu.
|
Trong lịch sử, không ít lần chúng ta đã tuyên bố về nền độc lập của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống, chính trong trận chiến sông Như Nguyệt đã vang lên bài thơ thần:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!”(1)
Vào thế kỷ XV, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, Nguyễn Trãi đã viết "Bình Ngô đại cáo". Đó là một bản hùng văn, khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam. Đầu năm 1788, trước khi xuất quân đánh giặc Thanh xâm lược, người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đã tuyên bố: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị... Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng”(2). Trong lời dụ tướng sĩ tại Thanh Hóa, Quang Trung-Nguyễn Huệ khẳng định: “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”(3).
Từ cuối thế kỷ XVIII, Việt Nam lại đứng trước họa xâm lăng của thực dân Pháp. Họ tự cho mình sứ mệnh “khai hóa văn minh cho dân An Nam”, nhưng thực chất là chế độ thực dân tàn bạo, trong khi đó, các cuộc đấu tranh của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX vẫn đi theo ngọn cờ của tư tưởng phong kiến, hoặc ảnh hưởng của tư tưởng tư sản. Đó là những con đường không phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân, không phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại mới…, nên dẫn đến thất bại, cho dù đã có không ít đầu rơi máu chảy.
Vượt qua tầm nhìn hạn chế của những người yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã hình thành nên con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Với ngọn cờ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập". Sau khi chỉ rõ những chứng cứ pháp lý mang tầm quốc tế, những chứng cứ lịch sử về việc nhân dân Việt Nam đã làm chủ vận mệnh của mình, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”(4).
"Tuyên ngôn Độc lập" là sự kế thừa và phát triển tư tưởng, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc. “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” là một điều hiển nhiên, như là một điều trời đất cũng phải thừa nhận. Hồ Chí Minh cho rằng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(5).
Các tuyên bố độc lập của dân tộc Việt Nam đều đưa ra và dựa trên những chứng lý mà không ai có thể bác bỏ hay chối cãi. Nguyễn Trãi khẳng định:
“Bờ cõi núi sông đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác"
Trong "Tuyên ngôn Độc lập" của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khi dẫn ra lời của bản "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của cách mạng Pháp 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”(6).
Các tuyên ngôn độc lập đều vạch rõ sự phi nghĩa, phi lý và dã man của các thế lực xâm lược Việt Nam. Đó là những hành động chà đạp chủ quyền, độc lập dân tộc của Việt Nam, giết hại dã man người dân Việt Nam, “bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”(7)...
Với những bằng chứng lịch sử và chứng lý đó, các cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam là chính nghĩa, hợp với lòng người, hợp với đạo lý của nhân loại. Điều này chẳng những đánh thẳng vào mưu đồ đen tối của những kẻ xâm lược, vạch ra sự thất bại tất yếu của chúng, nếu chúng đụng đến độc lập, tự do của Việt Nam, rằng: “Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!”, mà còn là sự động viên, khích lệ quyết tâm, ý chí và tinh thần chiến đấu của dân ta. Đó là một niềm tin chiến thắng có cơ sở lịch sử, dựa trên sức mạnh đã được chứng minh, như Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(8).
Bài thơ thần bên sông Như Nguyệt xuất hiện trong lúc Đại Việt đang chống trả quân Tống. "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi ra đời sau ngày nước Đại Việt sạch bóng quân xâm lược nhà Minh. Lời dụ của Quang Trung-Nguyễn Huệ ra đời khi trên đường xuất quân ra Bắc, để rồi sau đó đánh tan quân giặc ở Thăng Long. Đối với bản "Tuyên ngôn Độc lập" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc đó mặc dù chúng ta đã giành được độc lập nhưng với tầm nhìn chiến lược của một lãnh tụ kiệt xuất, Người đã nhận rõ âm mưu và ý đồ “quyết tâm chiếm nước ta một lần nữa” của thực dân Pháp. Mặc dù Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”(9), nhưng trong nội dung bản "Tuyên ngôn Độc lập", Người “ưu tiên” vạch tội thực dân Pháp, và tuyên bố: “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”(10). Hồ Chí Minh đã dự báo trước, gần như chắc chắn, chúng ta phải tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Và sự thật, cuộc kháng chiến đó đã phải kéo dài 9 năm, phải bằng một Điện Biên Phủ mới đánh gục hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Tiếp theo, nhân dân Việt Nam còn phải tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài hơn, gian khổ hơn với những hy sinh to lớn hơn để đi tới Đại thắng mùa Xuân 1975, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế mới nhiều biến động, vẫn rất cần khẳng định mạnh mẽ rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
"Tuyên ngôn Độc lập" do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã đi vào lịch sử như một áng hùng văn!
PGS, TS VŨ QUANG ĐẠO
------------------------------
(1) Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, Tập V, Tổng luận, NXB CTQG-ST, H, 2014, tr. 25.
(2) Sđd, tr.38.
(3) Sdd, tr 39.
(4) Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập; Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG-ST, H, 2009, tr. 557.
(5) Sđd, tr.555.
(6) Sđd, tr. 555.
(7) Sđd tr. 556.
(8) Sđd, tr. 557.
(9) Sđd, tr. 557.
(10) Sđd, tr.557.