QĐND - Cách mạng Tháng Tám diễn ra cách đây đã 70 năm nhưng vẫn để lại cho thế hệ đương thời nhiều bài học lớn cần suy ngẫm, vận dụng. Một đất nước dài và hẹp, với diện tích hơn 33 vạn ki-lô-mét vuông, dân số 20 triệu, chia làm 58 tỉnh, thành phố, bị thực dân chia thành 3 kỳ với 3 chế độ cai trị, trong điều kiện thông tin liên lạc rất lạc hậu, nhưng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước chỉ diễn ra trong vòng một tuần, từ 19-8 đến 25-8-1945.
Nơi bắt đầu cuộc Tổng khởi nghĩa là Hà Nội, với phương thức khởi nghĩa độc đáo, sáng tạo, diễn ra chủ yếu bằng uy lực của quần chúng, vũ lực chỉ đóng vai trò hỗ trợ, nên rất ít đổ máu, tạo ra một điển hình "khởi nghĩa dân tộc" kiểu Việt Nam-Hồ Chí Minh hiếm thấy trong lịch sử hiện đại. Nghe tin Nhật đảo chính Pháp, ngày 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại chùa làng Đồng Kỵ (Tiên Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" ra đời. Nhận được chỉ thị, Hà Nội đã mạnh dạn phát triển lực lượng vũ trang và các đoàn thể cứu quốc; tổ chức các cuộc mít tinh, treo cờ, rải truyền đơn, dán áp phích, kẻ khẩu hiệu... ở nội, ngoại thành, tạo nên khí thế tiền khởi nghĩa.
Ngày 13-8-1945, hội nghị đại biểu của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật. Ngày 15-8, nghe tin Nhật đầu hàng, Xứ ủy Bắc Kỳ họp tại làng Vạn Phúc-Hà Đông quyết định "khởi nghĩa từng phần" ở các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng, thành lập ngay Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội để chỉ đạo việc chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa.
 |
Mít tinh phát động khởi nghĩa cướp chính quyền tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19-8-1945. Ảnh tư liệu
|
Tối 17-8, Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội đã họp hội nghị mở rộng bàn cách khởi nghĩa, có sự tham gia của các đoàn thể cứu quốc, các đội công nhân, thanh niên xung phong, tự vệ chiến đấu. Cùng tối hôm đó, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ họp bất thường và đưa ra kết luận: Dù về mặt quân sự, so sánh lực lượng giữa ta và địch có sự chênh lệch rất lớn nhưng lực lượng chính trị của cách mạng đã rõ ràng ở thế áp đảo, trong khi thái độ chung của quân Nhật là "án binh bất động". Bọn phản động và chính quyền thân Nhật đều hoang mang bối rối. Do đó, thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội đã chín muồi. Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội cũng đi đến quyết định phương thức khởi nghĩa là: Dùng lực lượng chính trị áp đảo của quần chúng; kết hợp chĩa mũi nhọn vào chính quyền bù nhìn; vận dụng sách lược mềm dẻo, vô hiệu hóa phản ứng của quân Nhật. Về kế hoạch khởi nghĩa, sẽ huy động hàng vạn quần chúng cách mạng, có các đội vũ trang làm lực lượng xung kích, tiến hành mít tinh ở Quảng trường Nhà hát lớn, sau đó chuyển thành tuần hành thị uy, xông lên chiếm các cơ quan trọng yếu của chính phủ bù nhìn trong nội thành. Đối với quân Nhật, không đặt vấn đề tước vũ khí hay đánh chiếm những nơi có quân Nhật đóng. Tuy nhiên cũng dự kiến khả năng nếu quân Nhật gây ra xung đột vũ trang thì ta phải kiên quyết đánh. Tranh thủ đoạt vũ khí càng nhiều càng tốt rồi rút ra ngoại thành, tiến hành chiến tranh du kích, củng cố và phát triển lực lượng, chờ Quân Giải phóng về cùng phối hợp tiến công, chiếm lại thành phố. Đồng thời, huy động quần chúng cắm cờ đỏ sao vàng khắp phố phường; phát báo, truyền đơn, dán áp phích, gọi loa, hô hào khởi nghĩa, chuẩn bị vũ khí thô sơ…
Sáng 19-8, theo kế hoạch đã định, từ các cửa ô, các đoàn mang theo cờ, băng, khẩu hiệu và vũ khí thô sơ, khoảng 20 vạn người xếp thành hàng ngũ tới Quảng trường Nhà hát Lớn dự mít tinh. Đúng 10 giờ bắt đầu làm lễ chào cờ, sau khi đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa giành chính quyền, cuộc mít tinh biến thành tuần hành. Sau đó tiến về chiếm đóng các cơ quan đầu não, trụ sở quan trọng như: Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Sở Cảnh sát Trung ương…
Như vậy, đối chiếu với phương thức khởi nghĩa mà Trung ương Đảng đề ra lúc đầu: "Dùng lực lượng vũ trang tước vũ khí của quân đội Nhật ở bất cứ nơi nào ta có điều kiện, tập trung lực lượng kịp đánh vào các đô thị và trung tâm của địch, đánh chặn các đường rút lui, tước hết vũ khí của chúng, huy động nhân dân đem hết tâm lực ủng hộ đạo quân giải phóng, xung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh quân thù", thì phương thức khởi nghĩa của Hà Nội là hết sức sáng tạo, linh hoạt, dựa hoàn toàn vào uy lực của quần chúng, lấy đối thoại, vận động, thuyết phục mà xử lý mọi bất trắc.
Chủ trương và phương thức khởi nghĩa "kiểu" Hà Nội được Trung ương rút kinh nghiệm và chỉ thị cho các địa phương trong cả nước tiến hành theo phương thức đó. Đồng chí Trường Chinh từng nói: Từ thực tế khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, Trung ương đã đề ra một phương pháp, một hình thức đấu tranh chính trị chống Nhật và thương lượng với Nhật. Sáng kiến và tinh thần anh dũng của nhân dân Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội là đã chớp ngay thời cơ nổi dậy giành chính quyền. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở miền Bắc là thắng lợi có tính chất quyết định của cuộc Tổng khởi nghĩa. Thắng lợi của miền Bắc tạo điều kiện và cổ vũ nhân dân ở Nam Bộ và những vùng chưa giải phóng nổi dậy giành chính quyền không thể chậm trễ. Sau khi khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, do Nhật đề nghị, cuộc đụng độ giữa Giải phóng quân và lính Nhật ở Thái Nguyên đã được giải quyết bằng thương lượng.
Phương thức khởi nghĩa "kiểu" Hà Nội đã diễn ra đúng phương châm "đem sức ta mà giải phóng cho ta", với nét độc đáo dựa vào ưu thế áp đảo của quần chúng cách mạng; sử dụng đối thoại, thương lượng, qua đó vô hiệu hóa mọi hoạt động can thiệp, tránh được xung đột vũ trang có thể xảy ra trong nhiều tình huống. Phương thức này đã nhanh chóng được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy làm "mẫu" để chỉ đạo Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc…
Thiếu tướng, GS BÙI PHAN KỲ