QĐND - Trong những ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, lực lượng vũ trang (LLVT) cách mạng đóng vai trò xung kích, nòng cốt cho quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, trong những năm 1941-1944, lực lượng quân sự của cách mạng được xây dựng từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, từ tự vệ cứu quốc đến tiểu tổ du kích, rồi phát triển thành đội du kích.
Tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng và tác chiến của đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dựa vào sự ủng hộ và che chở của nhân dân để phát triển lực lượng với phương châm “người trước, súng sau”, “có dân là có súng”, “vũ trang toàn dân”…, thể hiện đậm nét trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, do Hồ Chí Minh soạn thảo. Trong chỉ thị này, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì LLVT trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên”.
 |
Lực lượng vũ trang cách mạng cùng nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở Hải Phòng, ngày 23-8-1945. Ảnh tư liệu.
|
Đội quân cách mạng là con em của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu đã mang một sứ mệnh vẻ vang từ khi ra đời, như trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân: “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”.
Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (tháng 4-1945) quyết định thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, thành Việt Nam Giải phóng quân. Việt Nam Giải phóng quân được nhân dân đùm bọc, càng đánh càng mạnh, càng giành thắng lợi lớn hơn.
Tại các chiến khu, LLVT cách mạng hoạt động mạnh: Tiến công đồn địch, phục kích, cướp vũ khí, chống càn quét khủng bố. Các căn cứ kháng Nhật trên các địa bàn quan trọng như Khu giải phóng Việt Bắc, các chiến khu: Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Vần-Hiền Lương; khu du kích Ba Tơ… đã tác động trực tiếp thúc đẩy phong trào cách mạng tại chỗ phát triển, đồng thời chi viện lực lượng, hỗ trợ đấu tranh cho các địa phương khác. Các tổ tự vệ, các đội tự vệ chiến đấu và tuyên truyền xung phong cũng nhanh chóng được xây dựng ở các thành thị, với những hình thức phù hợp và hoạt động mạnh, gây hoang mang cho kẻ thù, tạo khí thế phấn chấn trong nhân dân, thu hút đông đảo quần chúng đứng về phía cách mạng.
Trong những ngày sục sôi Tổng khởi nghĩa, LLVT cách mạng đã có khoảng 5000 cán bộ, chiến sĩ, là chỗ dựa tin cậy cho lực lượng chính trị của quần chúng. Hoạt động của LLVT chính quy tập trung, của các đội du kích, của các đội tự vệ tuyên truyền bán vũ trang... diễn ra sôi nổi, rộng khắp trong cao trào kháng Nhật cứu nước, đã tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy khởi nghĩa từng phần ở nhiều nơi. Khi thời cơ lịch sử đến, LLVT cách mạng đã kịp thời xung kích đi đầu, cùng toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi nhanh chóng và trọn vẹn.
Thực tiễn sinh động của Cách mạng Tháng Tám 1945 đã khẳng định: Nhờ xây dựng LLVT làm nòng cốt, làm chỗ dựa tin cậy, hỗ trợ phong trào quần chúng, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, nên Cách mạng Tháng Tám đã thành công nhanh gọn và ít đổ máu. Đó cũng là thắng lợi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối quân sự của Đảng ta, đặt nền móng cho sự hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. Đó là tư tưởng về cuộc chiến tranh cách mạng toàn dân, toàn diện, động viên sức mạnh toàn dân, vũ trang toàn dân; tổ chức LLVT gồm ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích; phương châm hoạt động là phối hợp giữa ba thứ quân; tư tưởng kết hợp quân sự với chính trị; tác chiến tích cực, chủ động, linh hoạt, mưu trí, bất ngờ...
VƯƠNG ANH