(Tiếp theo và hết)
QĐND - Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã ghi lại biết bao kỳ tích, trong đó, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một kỳ tích chói lọi, mà thời gian càng lùi xa, hào quang của nó càng thêm rực rỡ, tầm vóc vĩ đại của nó càng được nâng cao cùng với những thắng lợi nối tiếp của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Về ý nghĩa dân tộc và quốc tế của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời-nhà nước của toàn thể dân tộc Việt Nam; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta chịu ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên Chủ nghĩa Mác - Lê-nin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng lợi này còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là thắng lợi của truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam, như Bác Hồ đã tổng kết: “… mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Với ý nghĩa đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, nằm trong quỹ đạo của cách mạng vô sản. Đây là cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, do đó, thành công của cách mạng là triệt để, là "đến nơi" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Sau Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam do Người đứng đầu, đã chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài suốt 30 năm liền, vượt qua muôn trùng hiểm nguy, có lúc như "ngàn cân treo sợi tóc" để bảo vệ nền độc lập mới giành được, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, để giành thắng lợi từng bước và đi đến thắng lợi cuối cùng. Chín năm sau Cách mạng Tháng Tám, với thắng lợi Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, nhưng nhân dân Việt Nam phải đi tiếp một chặng đường dài 21 năm nữa để giải phóng miền Nam, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Không chỉ đối với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Và do vậy, thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám đánh dấu sự mở đầu của phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi quốc tế. Thô-mát Hốt-kin (Thomas Hodgkin)-một sử gia Anh thừa nhận: “Có thể coi Cách mạng Tháng Tám là một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời mười lăm năm. Đó là một cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa… Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước Xy-ri, Li-băng là những đòn tấn công tiếp tục, trực diện vào chủ nghĩa đế quốc Pháp, góp phần đẩy nhanh tiến trình tan rã hệ thống thuộc địa của nó. Những nhân tố đó đã buộc giới cầm quyền Pháp phải thay đổi chính sách thuộc địa. Năm 1946, chúng vội lập ra “Khối liên hiệp Pháp”. Nhưng thời đại đã đổi khác. Dưới ảnh hưởng của trào lưu cách mạng thế giới, trong đó Cách mạng Tháng Tám, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước bị áp bức và nô dịch đã bước đầu có những bước tiến mạnh mẽ và không gì có thể ngăn cản được xu thế độc lập, tự do. Trong các nước thuộc địa của Pháp ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh đã hình thành nhiều tổ chức, chính đảng dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa Pháp đã hướng vào mục tiêu đòi quyền tự quyết dân tộc, quyền được thành lập chính phủ dân tộc mà không bị lệ thuộc vào chính quốc và sau đó là hướng vào việc thủ tiêu hoàn toàn ách thống trị của thực dân.
Bước vào những năm 1950, cùng với cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị Pháp áp bức và nô dịch tiếp tục dâng cao; “cơn hấp hối” của hệ thống thuộc địa Pháp đã bắt đầu, phản ứng dây chuyền đã thực sự bùng nổ. Trong vòng khoảng 20 năm kể từ Cách mạng Tháng Tám-điểm khởi đầu quá trình tan rã-cho đến giữa những năm 1960, hệ thống thuộc địa của Pháp từ chỗ nguyên vẹn, hoàn chỉnh trong một thể thống nhất đã bị sụp đổ; chỉ còn lại khoảng 1% diện tích và 1/70 cư dân là còn nằm trong sự kiểm soát của chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Tuy đã giành được những thắng lợi to lớn là vậy, nhưng ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng Tám không chỉ đóng khung về mặt chính trị là vạch ra con đường đi tới cho các dân tộc bị nô dịch và áp bức mà có còn bao hàm cả ý nghĩa là một sự kiện về mặt tư tưởng. Trên bình diện này, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là một sự kiện lớn, “đã tác động sâu sắc không những tới tinh thần của nhân dân tất cả các nước bị áp bức, mà còn của toàn nhân loại”.
70 năm đã trôi qua, tình hình thế giới có biết bao đổi thay, nhưng ngọn cờ độc lập dân tộc vẫn luôn được giương cao, tinh thần tự lực, tự cường luôn luôn được đặt ở vị trí hàng đầu trong cuộc phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Cách mạng Tháng Tám của nhân dân Việt Nam-biểu trưng của độc lập dân tộc, người mở đường cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới để tự giải phóng cho mình khỏi ách áp bức và nô dịch của các thế lực xâm lược ngoại bang, vẫn chiếm giữ một vị trí trân trọng trong đời sống của các dân tộc thuộc địa. Mặc dầu mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có một con đường riêng trong cuộc đấu tranh để giải phóng và phát triển, song tấm gương Việt Nam, từ Cách mạng Tháng Tám luôn cổ vũ, động viên những người bạn cùng chung số phận, cùng vị trí xuất phát ban đầu, trên mỗi bước đường đi lên của họ. Đó cũng là nhân tố cơ bản và quan trọng trong sự nghiệp xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị và bình đẳng giữa dân tộc Việt Nam với bạn bè khắp năm châu.
Từ ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng Tám, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển", quan hệ đối ngoại của Việt Nam ngày càng mở rộng, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Chúng ta đã phá vỡ thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn; có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước, quan hệ kinh tế-thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ; là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế ASEAN, ASEM, APEC, WTO...; đang đàm phán tham gia TPP; chuẩn bị ký kết các hiệp ước của EU; tích cực tham gia giải quyết những vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo với các nước liên quan, góp phần giữ vững môi trường hòa bình ở khu vực và thế giới.
Trên lĩnh vực đối ngoại quốc phòng, tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với 80 nước, bao gồm cả các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tùy viên quốc phòng Việt Nam tại 32 nước và có 45 nước thiết lập tùy viên quốc phòng hoặc kiêm nhiệm tại Việt Nam. Quan hệ quốc phòng của Việt Nam với các nước ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn; nhiều văn bản hợp tác đã được ký kết, nhiều cơ chế đối thoại, tham vấn đã được thiết lập và triển khai. Quan hệ hợp tác quốc phòng được nhiều nước đối tác coi là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hợp tác với Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương khu vực, thế giới. Từ chỗ chỉ tham gia với tư cách là quan sát viên, khách mời danh dự, Việt Nam đã chủ động tham gia một cách tích cực, có trách nhiệm và đã đưa ra những quan điểm, sáng kiến có giá trị tại các diễn đàn quốc phòng an ninh đa phương khu vực và quốc tế như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La… được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Đặc biệt, tháng 5-2014, Việt Nam đã thành lập Trung tâm gìn giữ hòa bình để nâng cao chất lượng điều hành và huấn luyện nhân sự, đáp ứng cao nhất các yêu cầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Việt Nam đã cử một sĩ quan làm đại diện quân sự tại phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc và hai sĩ quan tham gia phái bộ của Liên hợp quốc tại Nam Xu-đăng. Đây là sự thể hiện một cách sinh động nhất trách nhiệm của Việt Nam trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; thể hiện tinh thần tích cực, chủ động hội nhập quốc tế về quốc phòng của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nâng cao uy tín của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.
Những thành tựu to lớn đạt được từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay chứng tỏ sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam. Chúng ta vô cùng tự hào về Đảng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện-đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam vượt qua mọi chông gai, hiểm nguy để cập bến bờ vinh quang, hạnh phúc. Phát huy tinh thần quật khởi Cách mạng Tháng Tám 70 năm về trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta “quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời.
LÊ VĂN PHONG, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
Bài 1: Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân
Bài 2: Hội nhập kinh tế quốc tế
Bài 3: 70 năm xây dựng và phát triển văn hóa, con người ở nước ta
Bài 4: Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển trong quá trình cách mạng
Bài 5: Sự lãnh đạo của Đảng - Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng