QĐND - Nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực, phân tán lực lượng cơ động chiến lược, làm thất bại kế hoạch Na-va của thực dân Pháp, giải phóng vùng đất đai rộng lớn, làm chuyển biến cục diện chiến tranh giành thắng lợi quyết định, tháng 9-1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp thông qua phương án tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954, trong đó quyết định điều động bộ đội chủ lực Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang Lào, Cam-pu-chia, mở các đòn tiến công chiến lược trên chiến trường Đông Dương, tạo thuận lợi cho quân và dân ta mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Thực hiện quyết tâm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho các đại đoàn chủ lực của Bộ và trung đoàn chủ lực Liên khu (Khu) gấp rút hành quân đến các mặt trận: Đại đoàn 316 (Lai Châu), hai Trung đoàn 18 và 101 thuộc Đại đoàn 325 (Trung Lào), Trung đoàn 101 thuộc Đại đoàn 325 (Hạ Lào - Đông Bắc Cam-pu-chia), hai Trung đoàn 108 và 803 chủ lực Liên khu 5 (Bắc Tây Nguyên) và Đại đoàn 308 chủ lực Bộ, Trung đoàn 148 chủ lực Khu Tây Bắc (Thượng Lào) để mở các đòn tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, tạo thế và tạo lực cho chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng: Điện Biên Phủ.
 |
Trung đoàn 108 Liên khu 5 và bộ đội Pa-thét Lào gặp mặt mừng chiến thắng sau Chiến dịch Trung Lào 1954. Ảnh chụp tại Bảo tàng Quân đội nhân dân Lào |
Mở đầu là đòn tiến công chiến lược diễn ra ở mặt trận Lai Châu (chiến dịch Lai Châu) từ ngày 10-12 đến ngày 20-12-1953, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu 24 đại đội địch, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn, thu nhiều vũ khí và chiến lợi phẩm, giải phóng phần lớn tỉnh Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ). Đòn tiến công chiến lược trên mặt trận Lai Châu là thắng lợi mở đầu các đòn tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, bước đầu làm thất bại âm mưu quân Pháp co cụm lực lượng về phòng thủ ở Điện Biên Phủ.
Đòn tiến công chiến lược thứ hai diễn ra ở mặt trận Trung Lào (chiến dịch Trung Lào) diễn ra làm hai đợt. Đợt 1 (từ ngày 21 đến 25-12-1953) và đợt 2 (từ tháng 1 đến tháng 4-1954), ta và bạn loại khỏi vòng chiến đấu 8.500 tên địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, giải phóng một vùng rộng 16.000km2 với 20 vạn dân ở Trung Lào, giam chân địch, tạo thế và lực cho bộ đội chủ lực ta mở các đòn tiến công chiến lược trên các chiến trường khác, nhất là ở Mặt trận Điện Biên Phủ.
Đòn tiến công chiến lược thứ ba diễn ra ở Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia (chiến dịch Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia) tiến hành ngày 30-1-1954 đến tháng 4-1954. Ta và bạn Lào, Cam-pu-chia đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1000 tên địch, giải phóng 20.000km2, nối liền căn cứ kháng chiến vùng Đông và Đông Bắc Cam-pu-chia với vùng giải phóng Hạ Lào, thu hút giam chân một bộ phận quân cơ động Pháp, phối hợp với các đòn tiến công chiến lược trên chiến trường Đông Dương.
Đòn tiến công chiến lược thứ tư diễn ra trên mặt trận Bắc Tây Nguyên (chiến dịch Bắc Tây Nguyên) nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực, phá tan âm mưu lấn chiếm của Pháp, củng cố và mở rộng vùng giải phóng, nối Liên khu 5 và Hạ Lào. Đòn tiến công chiến lược này diễn ra trên hai hướng với hai đợt: Đợt 1 (từ ngày 26 đến 28-1-1954) và đợt 2 (từ ngày 29-1 đến 17-2-1954), ta loại khỏi vòng chiến đấu 2.300 tên địch, giải phóng địa bàn chiến lược Bắc Tây Nguyên rộng 16.000km2 với 20 vạn dân. Đòn tiến công này buộc địch phải hủy bỏ cuộc hành quân Át-lăng ra vùng tự do Phú Yên-Bình Định, góp phần phân tán lực lượng cơ động chiến lược của địch, tạo điều kiện cho quân dân ta mở các đòn tiến công chiến lược, đẩy mạnh chiến tranh du kích vùng địch hậu.
Đòn tiến công chiến lược thứ năm diễn ra ở mặt trận Thượng Lào (chiến dịch Thượng Lào), nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực, đập tan tuyến phòng thủ của địch trên sông Nậm Hu, mở rộng vùng giải phóng Bắc Lào, buộc địch phải bị động đối phó, tạo điều kiện cho quân và dân ta chuẩn bị đánh trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Chiến dịch bắt đầu từ ngày 29-1-1954 đến ngày 13-2-1954. Kết quả, ta và bạn Lào loại khỏi vòng chiến đấu 17 đại đội địch, trong đó tiêu diệt gọn một tiểu đoàn lê dương, ba đại đội ngụy, đập tan toàn bộ tuyến phòng thủ sông Nậm Hu, mở rộng vùng giải phóng của bạn thêm gần một vạn ki-lô-mét vuông, nối liền khu giải phóng Thượng Lào với khu Tây Bắc Việt Nam. Phòng tuyến sông Nậm Hu, “con đường liên lạc chiến lược” giữa Luông Phra-băng, Huội Xài với Điện Biên Phủ của quân Pháp bị đập tan, khiến tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ở vào thế bị cô lập.
Với năm đòn tiến công chiến lược song song và kế tiếp trên các mặt trận từ Bắc đến Trung và Nam Đông Dương, ta đã tiêu diệt hàng vạn tên địch, giải phóng nhiều địa bàn chiến lược quan trọng (chủ yếu là vùng miền núi), làm thất bại âm mưu tập trung lực lượng cơ động chiến lược của Na-va, nhất là ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ, buộc địch phải phân tán binh lực để đối phó với ta. Trong khi đó, quân và dân ta ở mặt trận sau lưng địch (trung du và đồng bằng Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ) cũng đẩy mạnh chiến tranh du kích, khiến địch luôn phải huy động lực lượng cơ động đối phó khắp nơi và chịu thiệt hại nặng nề.
Thắng lợi to lớn của năm đòn tiến công chiến lược trên mặt trận chính diện, cùng với chiến tranh du kích ở mặt trận sau lưng địch ngày càng phát triển đã tạo ra thế và lực hết sức thuận lợi để cho quân và dân ta tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 thắng lợi oanh liệt, làm phá sản kế hoạch Na-va, giáng một đòn chí mạng vào ý đồ xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, góp phần đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, tiến tới ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ba nước Đông Dương.
Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP