LTS: Tại cuộc Hội thảo khoa học cấp Nhà nước: “Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sức mạnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh” do Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Tỉnh ủy Điện Biên tổ chức ngày 20-3-2014 tại TP Điện Biên Phủ, Trung tướng, TS Phương Minh Hòa, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, đã gửi bài tham luận viết công phu, sâu sắc. Báo Quân đội nhân dân xin lược trích đăng một phần tham luận này.

Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch hiệp đồng binh chủng đầu tiên của Quân đội ta sau gần 9 năm đương đầu với quân Pháp xâm lược. Trong chiến dịch này, lực lượng phòng không của ta tham gia chiến dịch gồm một trung đoàn pháo cao xạ 37mm, 5 tiểu đoàn và một số đại đội súng máy phòng không 12,7mm được biên chế trong các đại đoàn bộ binh. Trong khi đó, quân Pháp huy động tới 80% trong tổng số gần 400 máy bay ở Đông Dương, bao gồm các loại: Trinh sát, ném bom, cường kích và được Mỹ viện trợ một số lượng lớn máy bay vận tải hiện đại để thiết lập cầu hàng không từ Hà Nội, Hải Phòng chi viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Với ưu thế về vũ khí trang bị kỹ thuật và phương tiện chiến tranh, không quân Pháp - Mỹ hoàn toàn có thể làm chủ bầu trời Điện Biên Phủ.

Trận địa pháo cao xạ 37mm của Tiểu đoàn 383 tại Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu.

Tuy nhiên, thực tế diễn biến trên chiến trường Điện Biên Phủ không phản ảnh một cách đơn thuần tương quan lực lượng so sánh bằng những con số thống kê. Ta đã chủ động nắm tình hình, khai thác triệt để những điểm yếu của địch, nhanh chóng tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ chỉ huy chiến dịch đã chỉ đạo các lực lượng, nòng cốt là lực lượng phòng không hiệp đồng tác chiến với quân và dân trên các mặt trận, kiên quyết tiến công, khống chế đường không, cắt đứt cầu hàng không, chặn đường tiếp viện của địch. Trước hết, ta sử dụng lực lượng đặc công tập kích các sân bay, điểm đầu cầu hàng không của địch. Với ý chí quyết tâm cùng sát cánh chia lửa với Mặt trận Điện Biên Phủ, bằng bản lĩnh dũng cảm, ngoan cường và sự mưu trí sáng tạo, bộ đội đặc công ở Hà Nội, Hải Phòng đã tập kích vào các sân bay Gia Lâm, Cát Bi và Đồ Sơn, phá hủy hơn 80 máy bay và nhiều kho xăng, dầu, bom đạn, gây tổn thất lớn cho địch, làm giảm sút nghiêm trọng khả năng hoạt động chi viện ở các đầu cầu hàng không, gây cho địch hoang mang, lo sợ.

Khi chiến dịch mở màn (13-3-1954), cùng với việc bắn chế áp các trận địa pháo binh, các lô cốt và hỏa điểm của địch, lực lượng pháo binh chiến dịch đã bắn cấp tập vào các sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm, phá hủy máy bay đang đậu trên sân bay, bắn cháy các kho xăng, dầu. Các đợt tiếp theo, pháo binh ta tiếp tục bắn khống chế sân bay làm cho phi công địch không dám mạo hiểm hạ cánh xuống sân bay mà phải chuyển sang phương pháp thả dù tiếp viện. Với cách đánh “vây, lấn, tấn, chiếm”, các lực lượng của ta đã từng bước loại bỏ và làm chủ được các cứ điểm vòng ngoài, buộc địch phải co cụm vào phân khu trung tâm. Các đơn vị bộ binh, pháo binh đã tích cực đánh địch, chế áp địch, chi viện hỏa lực cho bộ đội cao xạ trong quá trình cơ động chiến đấu, triển khai trận địa để tạo vùng hoả lực phòng không bao vây không phận của địch. Khi không gian tác chiến của địch ngày càng bị thu hẹp, không gian tác chiến của ta ngày càng rộng thì địch càng gặp nhiều khăn hơn trong việc thả dù tiếp viện; phần lớn hàng tiếp tế của địch bị ta thu được. Cứ như vậy, chiến hào của ta càng vào sát địch bao nhiêu thì hiệu quả thả dù tiếp tế của địch càng thấp.

Cùng với lực lượng bộ binh và công binh từng bước bao vây, thắt chặt vòng vây ở dưới mặt đất, các đơn vị phòng không đã nhanh chóng cơ động bám sát bộ binh và triển khai trận địa ngay trên cánh đồng Mường Thanh, thiết lập được vùng hỏa lực phòng không bao trùm, khống chế toàn bộ không phận của đối phương. Song song với việc đánh máy bay ném bom và máy bay cường kích của địch để bảo vệ đội hình binh chủng hợp thành chiến đấu, các đơn vị phòng không đã tập trung hỏa lực đánh tiêu diệt các máy bay vận tải thả hàng tiếp viện. Từ ưu thế hoạt động trên không của địch, thì nay khi gặp phải lưới lửa phòng không dày đặc đang từng bước khép chặt không phận, buộc phi công địch phải nâng độ cao để thực hiện đánh phá và thả dù hàng, thậm chí còn không dám thả dù vào ban ngày mà phải chuyển sang thả dù vào ban đêm. Không chỉ không quân Pháp, mà không quân Mỹ can thiệp, với việc lập cầu hàng không gồm 29 máy bay vận tải hạng nặng C-119 do Mỹ chỉ huy, cũng bị lực lượng phòng không của ta đánh bại. Cụ thể là ngày 19-4-1954, chiếc máy bay vận tải C-119 được mệnh danh là “Cọp bay” do phi công Mỹ lái lên vùng trời Điện Biên Phủ để thả hàng tiếp tế cho quân Pháp đã bị hỏa lực phòng không của ta bắn rơi tại chỗ. Từ đó, các phi công Mỹ không dám thực hiện thả dù ở độ cao thấp. Ngày 27-4-1954, đàn “Cọp bay” do phi công Mỹ lái lên thực hiện thả dù hàng ở độ cao lớn đã bị dạt sang trận địa của ta 65 tấn hàng, còn đoàn máy bay vận tải Đa-cô-ta do phi công Pháp lái thả dù dạt sang quân ta 20 tấn.

Vào những ngày cuối của chiến dịch, trước lưới lửa phòng không dày đặc của ta, các máy bay vận tải do phi công của Pháp và Mỹ lái đã không dám bay vào vùng trời Điện Biên Phủ để thả dù tiếp tế cho đồng bọn, mà phải bay về căn cứ. Không còn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm tiếp viện, quân số bị thương vong ngày càng nhiều không được đưa đi cấp cứu kịp thời đã làm cho tinh thần của binh lính địch rối loạn, không còn đủ ý chí để kháng cự.

Khống chế đường không, cắt đứt nguồn tiếp tế duy nhất bằng cầu hàng không cho quân đồn trú của địch ở Điện Biên Phủ là cách đánh hiểm, đánh thẳng vào “dạ dày” của địch. Các hoạt động tác chiến khống chế đường không, bao vây trên không, cắt đứt cầu hàng không, chặn đường tiếp vận của địch cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là sự hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, nhịp nhàng của nhiều lực lượng, thực hiện đánh địch cả ở dưới mặt đất và cả ở trên không, đã làm cho không quân Pháp và can thiệp Mỹ thất bại nặng nề. Trong 56 ngày đêm chiến đấu, lực lượng phòng không ta đã bắn rơi tổng số 62 máy bay các loại của địch, hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của Chiến dịch Điện Biên Phủ.

ĐỨC GIANG (thực hiện)