QĐND - Sau “đòn trinh sát chiến lược” giải phóng Phước Long (từ 12-12-1974 đến 6-1-1975), ta nhận thấy quân ngụy không còn khả năng phản kích giành lại địa bàn đã mất, Mỹ cũng không có khả năng quay trở lại chiến trường miền Nam. Vì vậy, thời cơ lớn cho việc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã mở ra. Từ 18-12-1974 đến 8-1-1975, Bộ Chính trị tổ chức hội nghị mở rộng nhằm xác định và bổ sung để hoàn chỉnh quyết tâm cuối cùng theo sự phát triển mới của tình hình. Hội nghị xác định: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc…”. Hội nghị này xác định kế hoạch chiến lược cơ bản trong hai năm 1975-1976 và cũng xác định một phương hướng cực kỳ quan trọng là: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Chấp hành nghị quyết của Bộ Chính trị, ta đẩy mạnh hoạt động tiến công địch trong mùa khô 1974-1975 và thu được thắng lợi lớn. Với những thông tin có được từ phía địch, Quân ủy Trung ương quyết định dùng chủ lực mạnh mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Ngày 10-3-1975 ta tiến công Buôn Ma Thuột, chính thức bắt đầu Chiến dịch Tây Nguyên. Đến ngày 24-3, ta đã giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, phá vỡ một mảng lớn quân địch từ Tây Nguyên đến duyên hải Nam Trung Bộ. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, ta đã cắt đôi thế bố trí chiến lược của quân đội ngụy Sài Gòn, đẩy chúng vào tình thế vô vàn khó khăn.
Trên đà thắng lợi, ta tiếp tục tập trung lực lượng, mở liên tục hai chiến dịch lớn là Trị Thiên-Huế và Đà Nẵng. Ngày 25-3, ta giải phóng Huế, ngày 29-3 giải phóng Đà Nẵng, tạo ra thời cơ lớn để thực hiện trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
 |
Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh (ngồi từ trái qua phải: Đại tướng Văn Tiến Dũng, đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Phạm Hùng). Ảnh tư liệu.
|
Cũng trong tháng 4-1975, Bộ Chính trị đã nhanh chóng quyết định giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do quân ngụy Sài Gòn chốt giữ. Đến ngày 29-4, bộ đội Hải quân cùng các lực lượng thuộc Quân khu 5 đã giải phóng hoàn toàn các đảo nổi như: Trường Sa, Sơn Ca, Nam Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn, An Bang. Đây là một chủ trương rất sáng suốt và nhạy bén của Bộ Chính trị.
Ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị họp và thông qua kế hoạch chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn-Gia Định, lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đây là chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn, có kết hợp tiến công và nổi dậy tại sào huyệt cuối cùng của địch, chiến dịch là đòn quyết chiến chiến lược lịch sử nhằm kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.
Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, các cánh quân và binh khí kỹ thuật đã vào vị trí tập kết. Hướng Tây Bắc có Quân đoàn 3 cùng lực lượng vũ trang Tây Ninh, Sài Gòn-Gia Định; hướng Bắc và Đông Bắc có Quân đoàn 1 thiếu cùng lực lượng đặc công, xe tăng, cao xạ; hướng Đông và Đông Nam có Quân đoàn 4, Quân đoàn 2 tăng cường pháo binh, cao xạ, xe tăng, đặc công; hướng Tây và Tây Nam có Đoàn 232 chủ lực miền Nam tương đương 1 quân đoàn. 17 giờ cùng ngày, các đơn vị trên hướng Đông và Đông Nam nổ súng trước tiến công địch tại tuyến phòng ngự phía Đông. Ngày 29-4, ta tổng công kích trên toàn mặt trận, thực hiện chia cắt, thọc sâu, tiến vào các vị trí thuộc nội đô Sài Gòn.
Ngày 30-4-1975, các binh đoàn thọc sâu đã thực hành đánh lướt, chiếm các vị trí quan trọng do quân đội Sài Gòn đang chiếm giữ như: Tổng nha cảnh sát, Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy… Lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lực lượng thuộc Quân đoàn 2 đã tiến vào dinh Độc Lập, treo cờ giải phóng lên nóc dinh, bắt sống toàn bộ nội các của chính quyền Dương Văn Minh, buộc Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đây chính là giờ phút cáo chung của chế độ ngụy quyền Sài Gòn và cũng chính là giờ phút quân và dân ta đã giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng gian khổ trong suốt hơn 20 năm.
TRẦN KIM HÀ